1
2
3
4
5
6
7
8
9
10
11
12
13

Quyển 21

Tăng Trưởng Thắng Lực – Phẩm Thứ 16. Phần thứ 2

Luận rằng:

Sao gọi là thâm tâm giác liễu? Kinh Vô Tận Ý nói rằng: “Lại nữa, tâm nầy nơi các chỗ làm lìa dối trá. Lìa dối trá là chẳng khởi lên siểm nịnh vậy. Chẳng khởi lên siểm nịnh là có thể quyết định vậy. Có thể quyết định là trừ cuồng, huyễn vậy. Trừ cuồng, huyễn là trụ thanh tịnh vậy. Trụ thanh tịnh là thường chánh trực. Thường chánh trực là vô tà khúc. Vô tà khúc là tánh minh liễu. Tánh minh liễu là khéo hiểu rõ. Khéo hiểu rõ là được chân thật. Được chân thật là chẳng thể hoại. Chẳng thể hoại là rộng kiên cố. Rộng kiên cố là được chẳng động. Được chẳng động là chẳng bỏ chúng sanh. Cho nên ở đây nói là thâm tâm giác liễu vậy”.

Kinh cũng lại chép: “Tối thượng thù thắng thâm tâm tu tập; an trụ nơi tịch tĩnh, lòng từ bảo bọc chúng sanh. Đối với người hiền lành nên cung kính tôn trọng, đối với người chẳng hiền lành đem tâm từ để cứu bạt. Kẻ chẳng cứu hộ mình lại cứu hộ, kẻ chẳng quy y tạo cho họ quy y. Kẻ trôi nổi làm cho họ lên bờ. Kẻ vô chủ tể tạo cho họ có chủ tể. Kẻ không bạn lữ tạo cho họ có bạn lữ. Đối với những kẻ tà mị, tạo cho họ chánh trực, đối với kẻ bạo ác khiến cho họ nhu thuận, đối với kẻ điêu ngoa, siểm nịnh, khiến cho họ ngay thẳng, đối với kẻ hư cuồng khiến cho họ thành thục; đối với kẻ gian manh, khiến họ thuần hậu, chất trực; đối với kẻ không hiểu biết suy nghĩ, khiến họ hiểu biết suy nghĩ; đối với kẻ khổ não, khiến họ được an ổn; đối với kẻ chẳng làm lợi lạc, khiến họ được lợi lạc; đối với kẻ ngã mạn làm cho họ khiêm hạ; đối với kẻ hủy báng làm cho họ sanh tâm tán thán. Đối với kẻ điêu ngoa làm cho họ vâng lời, đối với kẻ chẳng biết lo lắng làm cho họ biết lo lắng, đối với kẻ sai trái làm cho họ thấy đúng. Đối với các bậc thầy, khởi lên hạnh thanh tịnh, phương tiện thiện xảo, tâm hằng cung kính. Đối với sự dạy dỗ, thường hay nhớ nghĩ chẳng quên”.

Luận rằng:

Như thế từ từ thâm sâu tu tạo; tức được tăng trưởng thắng lực Đại Bi hiện tiền. Như Kinh Pháp Tập chép: “Lúc bấy giờ đức Quán Thế Âm Bồ Tát bạch Phật rằng:

Kính bạch Đức Thế Tôn! Bồ Tát tu học chẳng thuận nhiều Pháp; nếu giữ một Pháp tức có thể khéo biết tất cả Phật Pháp. Một Pháp đó là Đại Bi. Nếu chư Bồ Tát có thể hành Đại Bi, có thể nhiếp thủ tất cả Phật Pháp trong lòng bàn tay. Kính bạch Đức Thế Tôn! Như Chuyển Luân Vương có luân bảo như ý, cho nên được tất cả kẻ phục tòng. Bồ Tát nếu khởi tâm Đại Bi tức nơi Phật Pháp tự nhiên rộng được, lại cũng như thế. Bạch Đức Thế Tôn! Giống như mặt trời chiếu sáng thế gian, các loài hữu tình mọi sự đều được thành tựu biện tài. Bồ Tát nếu được tâm Đại Bi chiếu diệu, đối với tất cả phần Bồ Đề, tất nhiên dễ tu hành, giống như thế. Bạch Thế Tôn! Ý giống như các cây xanh, có thể giữ lấy cảnh giới riêng mình, Bồ Tát dùng tâm Đại Bi, đối với tất cả phần phát Bồ Đề, mỗi mỗi đều tu tạo như lý mà hành trì. Bạch Đức Thế Tôn! Giống như nương tựa vào mệnh căn, các căn khác. Bồ Tát nếu có tâm Đại Bi, tức có thể tu các phần phát Bồ Đề”.

Lại nữa Kinh Vô Tận Ý chép rằng:”Giống như mạng sống của con người, lấy hơi thở ra vào làm gốc, cũng như thế đó, Bồ Tát tu học Đại Thừa tức lấy tâm Đại Bi làm gốc vậy. Lại nữa như Trưởng Giả có một con yêu mến nhớ nghĩ thâm tình, chưa từng bỏ rơi. Bồ Tát có tâm Đại Bi rộng lớn đối với chúng sanh yêu mến như con mình”.

Luận rằng:

Ở đây quán như thế nào? Nghĩa là dùng tâm từ để tu. Đối với tất cả chúng sanh yêu thương giống như con riêng của mình. Trong đời quá khứ vô lượng khổ não; sanh trong hiện tại nhiều bệnh khổ, lớn lao như biển cả; vị lai thời luân hồi hiểm nạn.

Như Kinh Thập Địa chép:”Kẻ vô trí ngu si sẽ sanh vào các loài khác. Đã có vô số thân mệnh mất rồi, hiện tại đang mất và sẽ mất trong tương lai. Như thế khi chết đi, chẳng thể sanh ra thân nầy, mà phải chuyển đổi bị các khổ liên hệ tăng trưởng. Tùy theo sự sanh tử lưu chuyển chẳng thể ra khỏi, chẳng thể bỏ lìa; các uẩn chấp giữ; chẳng thể lìa xa các rắn độc; chẳng thể quán sát lục xứ không tụ; chẳng thể đoạn trừ ngã và ngã sở; chẳng thể đánh bạt mũi tên độc kiêu căng ngã mạn; chẳng thể diệt trừ lửa tham, sân, si; chẳng thể phá hoại hắc ám vô minh; chẳng thể làm khô cạn sóng khát ái lao xao; chẳng cầu mười lực của đạo sư bậc thánh; nhập vào rừng tà, chạy theo ma đảng; bị nổi trôi trong biển luân hồi; là mầm mống dày sâu của sự trói buộc. Sự đau khổ của tuổi già, tật bệnh luôn luôn bức bách, ta đem lòng thương các loài hữu tình, mà cứu giúp họ. Chứa vô số tư lương phước trí, làm căn lành cho tất cả làm cho được rốt ráo thanh tịnh”.

Kinh lại cũng chép:”Loài hữu tình rong ruổi trong sanh tử hiểm nguy trong ác đạo địa ngục bàng sanh, đọa trong cõi A Tu La, ngu si ám muội, thiếu thầy dẫn đường, cho đến chìm đắm trong sông mê, biển ái, mà lưu lạc mãi chưa từng tỉnh ngộ. Nguy hại suy bại trở ngại do tập khí tham dục chẳng chịu thí xả. Thân thấy La Sát là chỗ mình giữ ngã mạn ở bến bờ không chỗ nương tựa. Chẳng thể qua khỏi lục xứ, tụ lạc; chẳng thể ít thiện căn mà có thể tế độ được. Cho nên ta lấy Đại Bi lực đưa chúng sanh ra khỏi, làm cho họ thoát khỏi khổ đau, lìa những dơ uế, được tịch tịnh và làm cho họ an trụ trong tất cả trí tri, là chỗ quý giá vậy. Các loài hữu tình dù ưu bi khổ não, lưu chuyển liên tục, buộc tham ái, bị nguy hiểm trói buộc, làm cho vô minh siểm trá tạo ra che khuất, chìm đắm trong ba ngục mà chẳng cầu ra khỏi, nhưng ta nguyện khiến cho họ thoát khỏi sự sợ hãi và khổ não trong hiện tại; làm cho họ không còn chướng ngại, được an ổn vui thú”.

Luận rằng:

Đối với tâm kiên cố như thế tức có thể tăng trưởng Đại Bi phước hạnh. Lại Kinh Tối Thượng Vấn : “Ngày đêm sáu thời, mặc áo mới thanh tịnh, lễ kính Chư Phật, thường sanh lòng tôn trọng. Lần lượt tu tạo thành hạnh Phổ Hiền”.

Lại nữa, Kinh Tam Tụ (Triskhandhaka) chép rằng: “Đầu mặt tiếp với chân tay kính lễ Chư Phật; tức có thể sám hối tiêu trừ tất cả tội cấu. Tam tụ nghĩa là: sám hối, khuyến thỉnh và tùy hỉ phước đức.” Lại nữa Kinh Ưu Ba Ly Sở Vấn nói: “Phàm làm rõ sự khuyến thỉnh, một loại ý nghĩa lợi lạc; giải thoát khỏi lưới ma, ngộ được vô thường. Lại phải làm lễ cung kính tất cả Chư Phật”.

Như Kinh Vô Tận Ý chép:”Tự mình sám hối sẽ rộng được các phước”. Như bốn bài kệ về Phổ Hiền Hạnh Nguyện nói:”Tùy hỉ phước hạnh”. Như trong phẩm Nguyệt Đăng Kinh tùy hỉ nói: “Tự mình làm tiêu trừ có ba loại sáng suốt; ánh sáng ấy do: Sự cúng dường hồi hướng hình tướng”. Như Kinh Bảo Vân chép:”Nếu các Bồ tát chỗ cúng hoa tươi và hương thơm . Hương chiên đàn, gỗ lâu năm, gỗ quý, cho đến kẻ vô chủ tể, vô chấp trì, ngày đêm sáu thời vận tâm cúng dường Phật, Bồ Tát”. Lại nữa, Kinh Tam Muội Da (Trisamayaraja) chép rằng: “Mười phương thế giới các quốc độ, từ đất sanh ra các núi quý; nước sanh ra núi quý; tất cả thuốc hay thanh tịnh tốt đẹp. Từ nước cho những thức ăn uống và các loại vàng bạc quý cho đến nơi cõi Bắc Cu Lô Châu, rừng rậm đất đai mùi vị, hương thơm tự nhiên, tối thượng ái lạc là chỗ thọ dụng. Vận tâm lâu dài như trước để cúng dường”.

Luận rằng:

Như trên đã nói sự gần gũi thừa sự cúng dường Chư Phật và Bồ Tát. Như thế nghe rồi, hoàn toàn nhất tâm nương vào sự dạy dỗ mà phát nguyện hồi hướng.

Như Kinh Phổ Hiền Hạnh Nguyện (Bhadracarya) thấy Kinh Kim Cang Tràng (Vajradhvaja Parinamana) hoặc Thập Địa Kinh chép: “Lại nữa Bồ Tát, ở nơi Cực Hỷ Địa phát mười loại thệ nguyện rộng lớn, để thừa sự cúng dường tất cả Như Lai, mà có thể thành tựu thanh tịnh thắng giải. Hành tướng như thế tận đến hư không giới cùng với Pháp tánh cùng cõi vị lai vô số kiếp, mà nơi Chư Phật ra đời trụ thế làm việc cúng dường rộng lớn chẳng có ngơi nghỉ. Đây là việc phát khởi đại nguyện thứ nhất.

Vì muốn thọ trì tất cả các Pháp của Như Lai, mắt khéo hay giữ gìn chánh pháp của Chư Phật. Tận hư không giới cùng với pháp tánh; cùng đến vị lai tất cả kiếp số nhiếp thọ tất cả chánh pháp chẳng có ngơi nghỉ. Đây là sự phát khởi đại nguyện thứ hai.

Vì tất cả Chư Phật xuất hiện ra nơi đời; đầu tiên là an trụ nơi cung Đẩu Suất thiên, rồi giáng thần, gá vào bào thai, đản sanh và lớn lên, xuất gia tu khổ hạnh, tọa Bồ Đề đạo tràng, hàng phục các ma, chuyển bánh xe Pháp, thị tịch Niết Bàn. Đầu tiên, giữ hạnh đến lui cúng dường tất cả nơi; đồng thời chuyển bánh xe Pháp tối thượng đến tận hư không giới cùng với pháp tánh cho đến đời vị lai vô số kiếp. Với Chư Phật xuất hiện trên thế gian, thỉnh mời chuyển Pháp luân, chẳng để ngừng nghỉ. Đây là phát khởi đại nguyện thứ ba.

Vì muốn phát hạnh nguyện rộng lớn đến vô lượng Bồ Tát; không phân biệt các Ba La Mật, đầy đủ thanh tịnh. Nhiếp thọ các địa tổng tướng, biệt tướng, đồng tướng, dị tướng, thành tướng, hoại tướng, như thật chẳng thấy ngược, hiển thị lời giáo huấn và các hạnh của chư Bồ Tát, làm cho sự phát tâm nầy đến tận hư không giới cùng với pháp tánh; nhẫn đến vị lai vô số kiếp nơi chánh hạnh chẳng có dừng nghỉ. Đây là sự phát khởi đại nguyện thứ tư.

Vì muốn thành thục các loài hữu tình, có hình sắc, vô hình sắc, hữu tưởng, vô tưởng, phi hữu tưởng, phi vô tưởng, loài sanh bằng trứng, loài sanh bằng thai, loài sanh dưới nước ẩm thấp, loài hóa sanh. Ba cõi sáu loài nơi bị trói buộc, nơi danh sắc bị nhiếp làm cho vĩnh viễn đoạn trừ. Tất cả cõi ấy đều vào nơi biển Phật Pháp của chư Phật. Cứu cánh an trụ tất cả trí tri, làm cho chẳng mất đến tận hư không giới cùng với pháp tánh. Nhẫn đến đời vị lai tất cả kiếp số, thành thục hữu tình, chẳng có ngơi nghỉ. Đây là sự phát khởi đại nguyện thứ năm.

Vì muốn nhập vào cảnh giải thoát của mười phương thế giới, hoặc rộng, hoặc hẹp, hoặc thô, hoặc tế, hoặc che đậy, hoặc tạp loạn mà ở, giống như lưới võng phân chia khác nhau, tương ứng với hiện tại mà rõ biết; đến tận hư không giới cùng với pháp tánh, nhẫn đến đời vị lai vô số kiếp, đều có thể vào cảnh giới giải thoát chẳng có ngừng nghỉ. Đây là sự phát khởi đại nguyện thứ sáu.

Vì muốn nghiêm tịnh tất cả quốc độ Phật, từ một Phật sát cho đến một Phật sát. Tất cả quang minh chiếu khắp trang sức, lìa các phiền não, thành nơi chốn thanh tịnh. Đại trí hữu tình đầy dẫy nơi đó, hòa nhập vào chư Phật rộng đến các đại cảnh giới, tùy theo các loài hữu tình, ý vui quy hướng, bình đẳng hiển thị, tất cả làm cho hoan hỷ. Tận hư không giới đồng với pháp tánh. Nhẫn đến đời vị lai, tất cả kiếp số và các quốc độ Phật đều làm cho nghiêm tịnh, chẳng có ngừng nghỉ. Đây là sự phát khởi đại nguyện thứ bảy.

Vì muốn cùng chư Đại Bồ Tát đồng một ý vui, tích chứa thiện căn. Đồng một nơi duyên vào nơi tánh bình đẳng. Thường được gặp Chư Phật, chư vị Bồ Tát, tùy nơi ý muốn nầy, chẳng phải lìa bỏ. Theo uy lực của Phật mà đồng phát tâm, để rộng được chẳng mất thần thông, tức có thể tới lui khắp các thế giới. Nơi đại chúng hiện cùng một loại thân, vui tu Bồ Tát nơi chánh hạnh, ngộ bất khả tư nghì, Đại Thừa diệu pháp; tận hư không giới, đồng với pháp tánh, nhẫn đến vị lai tất cả kiếp số và cùng với chư Bồ Tát ngộ vào Đại Thừa chẳng có ngơi nghỉ. Đây là điều phát khởi đại nguyện thứ tám.

Vì muốn bất thối chuyển nơi hạnh Bồ Tát; thân ngữ ý nghiệp tất cả chẳng hao tổn, dần thấy chỗ làm nơi Phật Pháp, liền được quyết định. Dần nghe âm thanh lời nói; tức sanh tịnh tín, có thể khởi chánh tri, vĩnh viễn đoạn lìa phiền não. Nguyện làm cho thân nầy như cây thuốc lớn, để cứu bịnh khổ cho đời. Như lương thực, như ý để cứu người nghèo khổ, rộng làm lợi ích chúng sanh tu Bồ Tát Hạnh, cho đến tận hư không giới cùng với pháp tánh. Nhẫn đến vị lai tất cả kiếp số; chẳng hư huyễn nơi các hạnh và không ngừng nghỉ. Đây là sự phát khởi đại nguyện thứ chín.

Vì nơi mười phương tất cả thế giới sẽ chứng được vô thượng Chánh Đẳng Bồ Đề . Nơi ấy biến hóa từng sợi tóc nhỏ của chúng sanh hoặc một hoặc nhiều. Tất cả có thể hiển thị giáng sanh xuất gia thành Đẳng Chánh Giác, chuyển đại pháp luân, nhập đại Niết Bàn. Hiển thị cảnh giới của Phật, trí huệ oai lực, tùy theo loài hữu tình mà an lạc. Trong khoảng Sát na, liền làm cho giác ngộ, tận đến chúng sanh giới, chơn thật mà hồi hướng. Duy chỉ có một Bồ Đề quảng đại Niết Bàn; hoặc một âm thanh tuyên nói pháp yếu, làm cho tâm các loài hữu tình, tất cả đều lịch duyệt. Với thần thông lực, tất cả có thể đầy đủ nơi các thế giới, biểu hiện đại trí lực, tức có thể kiến lập tất cả các Pháp, hiển thị đại Niết Bàn, mà chẳng chìm vào trong tất cả các hành; cho đến tận hư không giới cùng các pháp tánh; nhẫn đến vị lai nhiều kiếp số; thành vô thượng Bồ Đề chẳng ngừng nghỉ. Đây là Bồ Tát phát khởi đại nguyện rộng lớn thứ mười”.

Luận rằng:

Ở đây quán sâu về sự tinh tấn, nơi tất cả xứ làm rồi hồi hướng. Như Kinh Quán Âm Giải Thoát (Avalokitesvara Vimoksa) chép: “Nơi ta tạo tất cả thiện căn bình đẳng hồi hướng, làm cho chúng sanh lìa khỏi rơi vào chỗ sợ hãi; làm cho chúng sanh thoát khỏi sự sợ hãi về ái ân trong quyến thuộc; làm cho tất cả chúng sanh diệt trừ sự nguy hiểm của ngu si. Làm cho chúng sanh đoạn trừ những sự sợ hãi về trói buộc, làm cho chúng sanh lìa dứt được sự sợ hãi nơi mạng sống; làm cho chúng sanh lìa khỏi sự sợ hãi của bần cùng; làm cho chúng sanh lìa khỏi sự thiên thọ; làm cho chúng sanh lìa khỏi sự sợ hãi của hủy báng; làm cho chúng sanh lìa khỏi sự sợ hãi luân hồi; làm cho chúng sanh lìa khỏi sự sợ hãi uy đức của đại chúng; làm cho chúng sanh lìa sự sợ hãi của việc chết chóc; làm cho chúng sanh lìa khỏi sự sợ hãi nơi con đường ác; làm cho chúng sanh lìa khỏi sự sợ hãi của hắc ám; làm cho chúng sanh lìa khỏi sự sợ hãi của oán hận mà gặp gỡ; làm cho chúng sanh lìa khỏi sự sợ hãi của ái biệt ly; làm cho chúng sanh lìa khỏi sự sợ hãi của ganh ghét; làm cho chúng sanh lìa khỏi sự sợ hãi của bức hại thân tâm; làm cho chúng sanh đoạn trừ những sự phiền não của ưu bi khổ não”.

Lại nữa, ở đây lược nói rõ về sự hồi hướng, như trong Kinh Phổ Hiền Hạnh, có kệ rằng:

“Thanh tịnh trang nghiêm Hạnh Văn Thù

Phổ Hiền thắng đức như thế nhu

Cả hai Đại Sĩ đều hồi hướng

Con nguyện tùy thuận mà học tu

Mười phương ba đời Chư Như Lai

Đều hồi hướng đến thanh tịnh đài

Con nay nguyện chứa các căn lành

Cùng Phổ Hiền Hạnh quyết không sai”.

Cung Kính Hành Lễ (Vandananusamsah Saptadasah Paricchedah) – Phẩm Thứ 17. Phần thứ nhất.

Luận rằng:

Ở đây lần lượt nêu rõ sự lễ kính Chư Phật tăng trưởng phước hạnh, nên biết như thế nào? Như Kinh Quán Sát Thế Gian (Avalokana Sutra) có kệ rằng:

Ở trong mỗi sát na

Thừa sự nơi Chư Phật

Ta nói các quả báo

Xa rời tám sự thật

Hình sắc thật đẹp tươi

Thành tựu tướng nghiêm trang

An trụ trong Phật Pháp

Không cùng với biếng làm

Trong hiện tại người nầy

Thọ dụng rất đủ đầy

Thường làm chúng Trung Tôn

Chẳng bịnh thân sáng sạch

Sanh vào nhà trưởng giả

Tôn kính chẳng kể xiết

Bố thí cả trí huệ

Trân bảo chẳng hề tiếc

Lại làm Chuyển Luân Vương

Thống lãnh bốn thiên hạ

Chúng dân đều vâng tòng

Đất nước giàu cao cả

Oai đức đều đầy đủ

Bảy báu nhiều vô lượng

Trong tất cả mọi nơi

Đều khuyên tu cúng dường

Được sanh trời Đao Lợi

Trời Tự Tại, Phạm thiên

Vì Thiên chủ Đế Thích

Phụng trì thanh tịnh giáo

Nếu ai trong tháp Phật

Chắp tay đi kinh hành

Trong một hằng sa kiếp

Thọ phước chẳng gì bằng

Nếu ở nơi tháp Phật

Phát tâm lễ chân Phật

Trong vô lượng ức kiếp

Khỏi sanh cảnh mù tật

Giữ vững các thiện căn

Dũng mãnh và tinh chuyên

Chứng thành Bồ Đề nguyện

Do lễ tháp cảm nên

Nếu trong đời ác nầy

Chuyển hướng về Phật thảy

Được gần Phật chỉ dạy

Trăm ngàn kiếp thật ngay

Ngay trong thế gian nầy

Tối thắng không ai bằng

Người, Tự Tại, Cõi Tiên

Không sao sánh kịp hiền

Ai thường đem tràng hoa

Cúng dường nơi tháp Phật

Dù nổi trôi lây lất

Sanh lên cõi trời nhất

Lên xe đẹp rực rỡ

Trang sức nhiều trân bảo

Lầu các và cung điện

Thiên nữ thường ghé vào

Thanh tịnh nhiều ao hồ

Lưu ly, chất pha lê

Đủ đầy tám công đức

Cát vàng phủ đáy ao

Trên không nhạc vang lừng

Huệ mạng thọ dài lâu

Sau nầy dù trôi nổi

Cũng sanh trong nhà giàu

Trong trăm ngàn ức kiếp

Thọ hưởng phước không lường

Thường đem hoa tốt đẹp

Nơi nơi rộng cúng dường

Vì Chuyển Luân Thánh Vương

Cùng Thiên Chủ, Đế Thích

Đại Tự Tại Thiên Tử

Chủ cõi Đại Phạm Vương

Do bố thí niệm thường

Công đức ấy vô lượng

Bao nhiêu đồ đẹp đẽ

Cúng Phật, Thầy dẫn đường

Người nầy ở thế gian

Phước lợi đều sẵn sàng

Và nữa y phục sang

Đem cúng dàng tháp miếu

Xa lìa chủng tộc hèn

Không bao giờ tái sanh

Quyến thuộc thường vây quanh

Chẳng biệt ly khổ não

Thường được đại Quốc Vương

Cúng dường , xưng tán luôn

Hoặc sanh loài trời, rồng

Người trí nơi thế gian

Được dũng mãnh oai thần

Phước báo chẳng thể lường

Đất nước cùng nhân dân

Tháp Miếu của Thế Tôn

Li ti hạt cải nhỏ

Người nầy dùng ít hương

Quyết định có tín tâm

Mà đến để cúng dường

Rộng được công đức nầy

Liền nghe ta nói đây

Vĩnh viễn rời ô uế

Kiên cố tâm tịnh đầy

Trừ bịnh khổ ưu bi

Dung nghi cao đẹp lạ!

Được làm Chuyển Luân Vương

Đủ uy đức đại trí

Tùy theo ở chốn nào

Phước lực thật là cao

Hoặc Vua, hoặc dân chúng

Niềm vui chẳng xiết bao

Toàn y phục tốt đẹp

Phụng cúng dâng tháp Phật

Người ấy khi tái sanh

Thân mình rực rỡ nhất

Thiên Y Ca Hộ La

Đầy đủ để hiện ra

Thường hiện mùi hương lạ

Cảm nhận liền vui ca

Lại nữa trong lầu vàng

Y dệt thật nghiêm trang

Rực rỡ sao mà đẹp

Tướng sư tử nguyên thanh

Tái sanh vào cõi trời

Thỏa ước mơ tâm nguyện

Lầu báu, trân bảo riêng

Tùy niệm mà sanh thiên

Nếu ai có phan đẹp

Cúng dường dâng tháp Phật

Theo ý mà vui lên

Nước Phật sanh về thật

Được thân màu vàng ánh

Các tướng đẹp vui thanh

Hưởng mỹ vị cao sang

Hiến nhạc vui hùng mạnh

Ở những nơi an lành

Y phục đẹp lịch thanh

Cúng phan đẹp cho Phật

Trên cung trời Đẩu Suất

Người nầy khi sanh ra

Của cải đầy kho nhà

Không quyến thuộc não hại

Kiên cố trí rộng đa!!

Trên dưới đều đoan nghiêm

Hiến cúng dường âm nhạc

Không bị lửa thiêu đốt

Cùng dao gậy làm ác

Chỉ dâng một đèn sáng

Cúng dường tháp của Phật

Công đức thí hoàn tất

Thọ mạng dài bậc nhất

Tâm thanh tịnh tuyệt vời

Hình sắc đẹp khôn nguôi

Khi tái hiện thân sau

Cõi tịnh vàng đẹp tươi

Sáng lành tỏa quang minh

Lực kiên cố quanh mình

Du hành nơi thế gian

Không sợ khủng bố nạn

Giả sử vô số kiếp

Cùng với các Phật quốc

Như số hạt cải mòng

Xưng lượng ấy chân thật

Ta bảo phước báo nầy

Không thể nào nói hết

Rộng lớn như hư không

Cúng dường tháp miếu Phật

Người nầy chẳng bao lâu

Đủ ba hai tướng tốt

Ánh quang minh chiếu diệu

Thật không sao nói hết

Ánh sáng ấy rực rỡ

Soi tận sông cát vàng

Như hoa Tô Ma đẹp

Mở bày tướng nghiêm trang

Danh đồn khắp các nơi

Đặc biệt đại thần thông

Nhiều vô kể thọ dụng

Được an ổn tối thượng

Thường cùng Người và Trời

Thân cận và hỗ trợ

Đủ oai nghi thiểu dục

Kiên trì giới hạnh đúng

Trong rừng sâu vắng vẻ

Tu thiền định vui khỏe

Trí huệ chẳng giảm suy

Tâm Bồ Đề chẳng di

Tri túc chẳng cầu thêm

Từ Bi thường an vui

Ai tạo ra âm nhạc

Cúng dường người trong đời

Lìa phiền não sầu lo

Viên mãn tướng nhận nghe

Mắt thường thật sáng rỡ

Xét xem rõ tư bề

Tai thường nghe tiếng lành

Như thế tâm tịnh thanh

Mũi cao, đẹp ngay thẳng

Tướng mạo thật hùng anh

Lưỡi này thường mềm mại

Màu sắc hồng êm ái

Âm lượng như Trời, Người

Nghe rõ câu thanh bai

Lưỡi chẳng nói điêu ngoa

Không đọa làm thân rắn

Không hư vọng, đoan chánh

Tối thượng thân thù thắng

Ý thường nghĩ hiền lành

Chẳng bao giờ gián đoạn

Chư Thiên, Người, Rồng, Thần

Ma Hầu, La Dà toán

Theo việc làm thế gian

An ủi mà thủ thường

Công đức bố thí thảy

Rộng như phước cúng dường.

Quyển 22

Cung Kính Hành Lễ – Phẩm Thứ 17. Phần thứ 2

Ai sau khi Phật diệt độ rồi

Thường hay tu sửa Tháp Phật vui

Khoảng trăm , ngàn, na do tha kiếp

Nguy nguy thân tướng mãi xinh tươi

Tối thượng tuyệt vời chiên đàn hương

Hợp cùng cung điện ngựa xe thường

Được phước báo nhưng không chấp trước

Bởi nhờ tu sửa Tháp miếu đường

Chánh Pháp một khi đã diệt rồi

Diêm Phù bỗng chốc biến xa xôi

Thiên cung an trụ thường vui vẻ

Bởi nhờ tu bổ Tháp miếu vui

Năm dục, cấu nhiễm quyết xả buông

Giới đức trang nghiêm mãi an thường

Nương duyên phạm hạnh, không tạo ác

Bởi nhờ tháp Phật nguyện xông hương

Mãn kiếp Ta Bà hẳn sanh Thiên

Giàu vui khoái lạc thật vô biên

Hóa duyên hóa độ chư Thiên ấy

Bởi nhờ đến Tháp cúng kết duyên

Diện mạo đoan trang, vẻ xinh lành

Nói năng khéo độ cả chúng sanh

Ai ai được gặp đều kính ái

Bởi nhờ cúng Phật đóa hương thanh

Xa lìa đường khổ rộng thênh thang

Thường gặp Như Lai sống an nhàn

Tịnh nghiệp siêng tu thường chuyển hóa

Bởi nhờ Tháp Phật thắp nén nhang

Ai từng trong khoảng một sát na

Siêng năng quét dọn Tháp miếu ngà

Quả báo cảm chiêu nhiều vô lượng

Xa rời tám nạn, lúc sanh ra

Trí tuệ trang nghiêm rất rỡ ràng

Năm dục thế gian chẳng luống màng

Luân hồi xa lánh xa xa lánh

Bởi lau Tháp Phật sạch gọn gàng

Giới hạnh viên dung chẳng hoại suy

Diệu Pháp khi nghe, sanh ngưỡng quy

Quyết không chuyển đổi tâm Phật ấy

Nhờ dọn Tháp miếu được quang huy

Ở trong đới ác cũng không sao

Hủy báng buông lung chẳng khi nào!

Phước huệ trang nghiêm thường tích trữ

Tâm tịnh Tháp Phật bởi dọn lau

Mùi vị, đồ ăn mãi dồi dào

Y phục trang nghiêm đẹp biết bao

Các căn tịnh uế đều biết rõ

Bởi nhờ Tháp Phật thường xuyên lau

Một khi gặp Tháp tâm thanh nhàn

Thay hoa cúng Phật được nghiêm trang

Nhờ nương học lực Đại Tôn Sư

Ngũ dục lìa xa mãi mãi an

Trong thế giới nầy, thọ mạng lâu

Những thú vui kia chẳng cần cầu

Vương giả thường sanh tâm kính nể

Nhờ chọn hoa tốt cúng Tháp mầu

Giới phẩm Bồ Tát trọn viên dung

Hiểm nguy dù mấy cũng như không

Tâm thường rõ biết si mê ấy

Nhờ duyên đến Tháp cúng hoa hồng

Đoạn trừ phiền não các chướng duyên

Bịnh khổ bao nhiêu, chẳng não phiền

Dù ở nơi nào, tâm vẫn tịnh

Từng đến Tháp Phật cúng hồng liên

Trong cõi người ta, thí đứng đầu

Cùng với chúng sanh cúng thật nhiều

Thanh tịnh trang nghiêm thân phước huệ

Nhờ cúng hoa tươi kính Tháp yêu

Hoa đẹp thường đem cúng Phật đài

Tràng phan bảo cái khắp muôn nơi

Trang nghiêm Tháp Phật, siêng năng ấy

Được phước vô biên, thật tuyệt vời

Ai từng thấy Tháp Phật trang nghiêm

Lễ bái, hân hoan ý ngưỡng chiêm

Thường hay xưng tán hồng danh Phật

Khiến cho người thấy phước tăng thêm

Chư Thiên, Long Thần, ma Hầu La

Tăng trưởng tín tâm khắp mọi nhà

Như hoa tươi đẹp một khi nở

Thường xuyên tuyên thuyết pháp như là

Do thường tuyên thuyết Pháp Như Lai

Phật trí chưa từng khuyết giảm sai

Khiến cho chúng sanh lìa ác đạo

Trời, người tăng trưởng phước huệ vui

Đầy đủ phước huệ thật nghiêm trang

Quyến thuộc vô biên rộng khinh an

Tùy tâm mãn nguyện được thanh tịnh

Ta nói người nầy vui thế gian

Nhu hòa, tịch tĩnh thật tinh anh

Giáo hóa đường tu cho chúng sanh

Dẫu giàu đi nữa, không tham đắm

Nhờ thuờng lễ Tháp cả lòng thành

Bố thí, hòa vui luôn thực hành

Bình đẳng, lợi hành, nhiếp chúng sanh

Dù ai hủy báng không sân hận

Bởi thường lễ Phật cả lòng thành

Hoặc sanh lên trời làm Đế Thích

Hoặc làm hoàng đế trong thế gian

Dù trời Tự Tại cũng từ tâm

Bởi nhờ lễ Phật thật nghiêm trang

Dù ở cõi dục, không đắm nhiễm

Dù đời giàu có dồi dào ấy

Cũng chẳng rơi vào ba ác đạo

Bởi nhờ lễ Tháp tâm vui thấy

Buông lời ý nghĩa theo lời ra

Không khác kinh điển vốn như là

Thường được sanh vào dòng quý phái

Bởi nhờ lễ Tháp tâm thật thà

Dù ở nơi nào tâm tịnh thanh

Cúng Phật hoa thơm với lòng thành

Thọ hưởng phước báo được làm vua

Ở yên như trước được lợi sanh

Đối với năm dục biết rõ ràng

Bức bách bao nhiêu cũng được an

Tâm tánh tịch nhiên không sợ hãi

Thân tướng đoan nghiêm vạn lạc quan

Như Kinh Đại Bi (Mahakaruna Pundarika Sutra) chép rằng : “Nầy A Nan, nếu có chúng sanh ở trong hiện tại hay cúng dường ta, hoặc sau khi ta diệt độ, cúng dường Xá Lợi như hột cải, lại hay vì ta mà tạo lập hình tượng, cùng tháp miếu.

Nầy A Nan! Chớ cản trở ý muốn nầy, giả sử có người hay phát khởi một lòng tịnh tín nương vào sự nhớ nghĩ Chư Phật mang một cánh hoa để rải trên hư không dùng để cúng dường, người này sẽ được Chuyển Luân Thánh Vương, Đế Thích, Tiên Chủ, Đại Phạm Thiên Vương, tức liền ra khỏi nghiệp của đời trước, cùng kiếp sanh tử vị lai lưu chuyển mà chẳng biết.

Nầy A Nan! Cũng nên biết việc nầy , giả sử có người trong mộng, hay mang một cành hoa tung vào trong hư không để cúng dường, ta nói người nầy có căn lành , sẽ được phước báo, chẳng biết là bao nhiêu.”

Lại nữa Kinh Bà Gia La Long Vương Sở Vấn (Vrhat Sagara Nagaraja Paripreccha) chép:”Nếu Bồ Tát gần gũi Chư Phật tức có thể được tám loại Pháp tăng thượng. Thế nào là tám:

Một là giáo hóa chúng sanh, thấy tướng tốt của Phật.

Hai là phụng sự cúng dường Như Lai.

Ba là ở nơi chúng hội tán thán công đức thù thắng của Chư Phật.

Bốn tạo lập hình tượng tưởng niệm Như Lai.

Năm là khuyến hóa chúng sanh thường chẳng lìa Chư Phật.

Sáu là tùy theo nơi thường hay nghe danh Phật

Bảy là thường nguyện vãng sanh về quốc độ của Chư Phật

Tám là chí chẳng yếu hèn, vui cầu trí Phật

Đây là tám loại pháp tăng thượng”.

Luận rằng:

Làm sao để tăng trưởng lợi ích thù thắng? Đối với Phật khởi lòng phụng sự, được Bồ Đề. Như Kinh Hoa Nghiêm có kệ rằng:

Vô lượng vô biên kiếp

Khó được nghe danh Phật

Huống gì được gần gũi

Nghi ngờ đều đoạn mất

Như ánh sáng trong đời

Chiếu soi khắp mọi Pháp

Phước đức trong ba đời

Khiến người người đều tịnh

Bậc xuất thế Như Lai

Vì đời, trao phước lớn

Dẫn dắt các chúng sanh

Khiến phước được tích thành

Ai biết cúng dường Phật

Lìa hết các hãi sợ

Mọi khổ tiêu diệt sạch

Trí tuệ sớm đạt thành

Thấy được đấng Lưỡng Túc

Phát tâm đại Bồ Đề

Thường được gặp Chư Phật

Tăng trưởng lực trí tuệ”

Kinh cũng lại chép:

“Đấng Như Lai Đại Từ

Thị hiện vào trong đời

Vì độ các chúng sanh

Chuyển Pháp mầu an lành

Trong vô số kiếp trước

Vì chúng sanh, cần khổ

Thế gian như thế nào

Đền ân đức Thầy Tổ

Vô lượng vô số kiếp

Vào trong các đường ác

Quyết chẳng bỏ Như Lai

Mà cầu được giải thoát

Không vì trong cõi ác

Một khi nghe danh Phật

Mà không sanh cõi lành

Bởi chẳng nghe danh Phật

Vì sao nguyện ở lâu

Ở lâu trong đường ác

Vì muốn thấy Như Lai

Tăng trưởng lực trí tuệ

Ai muốn thấy Chư Phật

Để trừ các khổ hoạn

Gặp Như Lai thường an

Cảnh giới bậc Đại Trí

Ai thấy được Chư Phật

Lìa xa mọi chướng nạn

Bao nhiêu phước tăng trưởng

Thành tựu Bồ Đề giác.”

Luận rằng:

Dầu thấy hình tượng được phước báo rộng lớn, huống nữa là gần gũi sắc tướng của Như Lai tin thọ lời giáo huấn, lại được phước rất nhiều. Như Kinh Tín Lực Nhập Ấn nói: “Nầy Văn Thù Sư Lợi, nếu có Thiện nam tử, Thiện nữ nhơn ở nơi các thế giới vi trần số, đối với Bích Chi Phật, mỗi ngày mang hàng trăm vị thức ăn uống ngon lạ và y phục trải qua hằng hà sa số kiếp để cúng dường.

Nầy Văn Thù Sư Lợi! Nếu lại có người dần dần chiêm nghiệm phụng trì trước một bức tượng Phật họa vẽ và các kinh điển, phước nầy hơn kia vô lượng a tăng kỳ; huống gì chắp tay mang một cành hoa, hoặc một nén hương, bột hương, đèn nến cúng dường phước nầy hơn vô số lượng phước trước”.

Luận rằng:

Ở đây làm sáng tỏ phương tiện công đức tăng trưởng . Như Kinh Bồ Tát Tạng (Buđhisattva Pitaka) chép rằng: “Nếu ai tu sửa Tháp cũ của Phật, được bốn loại thanh tịnh đại nguyện:

Một là tối thượng sắc tướng, chẳng có gì sánh bằng

Hai là thọ trì kinh điển tinh tấn chẳng giải đãi

Ba là sanh ra nơi nào cũng được gặp Như Lai

Bốn là khi sanh ra thân hình đầy đủ các tướng tốt”.

Kinh cũng chép:”Nếu ai hay đối với Tháp của Như Lai, dùng các hoa quý và hương bột cung kính cúng dường, được tám loại chẳng giảm:

Một là sắc tướng chẳng giảm

Hai là thọ dụng chẳng giảm

Ba là quyến thuộc chẳng giảm

Bốn là giới phẩm chẳng giảm

Năm là định lực chẳng giảm

Sáu là đa văn chẳng giảm

Bảy là trí huệ chẳng giảm

Tám là thắng nguyện chẳng giảm”.

Lại Kinh Bảo Tích chép rằng: “Giả sử chúng sanh đầy ba cõi, mỗi mỗi đều tạo tác, Tháp miếu Như Lai; cao rộng như núi Tu Di, trong hằng hà sa kiếp, mỗi nơi đều dùng đồ tốt đẹp để cúng dường. Nếu Bồ Tát chẳng xả tất cả tâm trí; mang một cành hoa phụng cúng Tháp ấy, sẽ được phước báo thù thắng nhất”.

Kinh cũng chép:”Giả sử trong ba ngàn đại thiên thế giới có các chúng sanh, mỗi mỗi chúng sanh đều được Chuyển Luân Thánh Vương an trụ nơi Pháp Đại Thừa, mỗi mỗi Chuyển Luân Vương là những ánh đèn chiếu sáng nơi đại hải, sánh như núi Duy Lô, làm chỗ soi sáng . Mỗi mỗi như thế mà cúng dường Tháp Phật.

Nếu Bồ Tát xuất gia hay dùng ít dầu, rồi tẩm dầu thơm để đốt, mang đến cúng dường Tháp miếu của Như Lai được công đức hơn công đức đốt sáng ở trước, trăm phần nhỏ nhất chẳng bằng một.

Lại nữa ở nơi Chuyển Luân Thánh Vương hay ở trước Phật và chúng Tỳ Kheo dùng các nhạc cụ để bố thí. Nếu Bồ Tát xuất gia thường hành khất thực; hoặc ở chỗ kia, được tùy theo sự thấy rồi chia phần ra để ăn, được công đức rộng lớn so với trước rất nhiều.

Lại nữa Chuyển Luân Thánh Vương ấy, tích chứa y phục cà sa như núi Tu Di, có thể đối với hiện tiền Phật và Tỳ Kheo chúng, mang đến để bố thí. Còn Bồ Tát xuất gia ở nơi ba y làm đồ sở hữu, tùy theo đó mà phụng thí, hiện tiền Chư Phật an trụ nơi Đại Thừa, các Tỳ Kheo Tăng và các Đức Như Lai, ở đây được phước gấp đôi phước ở trước.

Lại nữa Chuyển Luân Thánh Vương ấy mỗi mỗi đầy đủ nơi Diêm Phù Đề nầy, dùng những hoa để cúng dường Tháp miếu Phật. Còn Bồ Tát xuất gia có thể chỉ cầm một cành hoa để cúng thí nơi Tháp của Như Lai, sự cúng dường nầy hơn sự cúng dường trước, trong trăm phần chẳng bằng một”.

Luận rằng:

Đây nói rõ về hành tướng . Như Phẩm Thứ Đệ Siêu Việt (Anupurvasamudgata Parivarta) chép rằng:”Bồ Tát xuất gia như đã rõ biết rồi, lại hay ở trước Như Lai mà cúng dường, được bốn công đức hiền thiện:

Một là thường được tối thượng cung kính cúng dường

Hai là chỗ thấy được tùy thuận nương theo để học tập

Ba là luôn kiên cố tâm đại Bồ Đề

Bốn là tăng trưởng thiện căn, hiện được thấy ba mươi hai tướng đại trượng phu”.

Lại Kinh Hải Ý Bồ Tát Sở Vấn (Sagaramati Pariprccha) chép rằng:”Lại nữa nầy Hải Ý ! Có ba loại Pháp tên là cúng dường thừa sự Như Lai . Thế nào là ba?

Một là phát Bồ Đề tâm chẳng thối chuyển

Hai là đối với Chánh Pháp có thể giữ gìn

Ba là đối với chúng sanh phát khởi đại bi”.

Lại Kinh Bảo Vân chép: “Nầy Thiện nam tử! Bồ Tát thành tựu mười pháp, đối với thai tạng cấu uế chẳng nhiễm. Thế nào là mười?

Một là tâm tịnh tín tạo hình tượng của Như Lai

Hai là tu bổ Tháp miếu cũ của Chư Phật

Ba là dùng hương thơm và những hương bột để đốt

Bốn là giữ những hương bằng nước tắm Chư Như Lai

Năm là đối với Tháp Phật quét dọn lau chùi sạch bụi đất

Sáu là gần gũi phụng sự cha mẹ

Bảy là gần gũi cúng dường Hòa Thượng , A Xà Lê

Tám là thường hay cung cấp kẻ đồng phạm hạnh

Chín là hay làm huệ thí chẳng cầu báo đáp

Mười là căn lành nầy làm cho các loài hữu tình chẳng nhiễm nơi thai tạng cấu uế khi sanh ra.

Nầy Thiện nam tử! Nếu đầy đủ mười Pháp như thế, tức có thể phát khởi thâm tâm tùy hỉ”.

Như Kinh Bát Nhã chép: “Nếu Bồ Tát Ma Ha Tát an trụ nơi Đại Thừa, đầu tiên phải nên phát tâm tùy hỉ, những Bồ Tát nầy việc hay làm lại làm; tức là đối với Đại Thừa bất thối chuyển.

Phật bảo: Kiều Thi Ca! Giả sử có người hay sánh với ba ngàn đại thiên thế giới có thể biết được số lượng, những Bồ Tát khi phát tâm tùy hỉ sẽ được công đức chẳng thể tính đếm. Lúc ấy Thiên Chủ Đế Thích bạch Phật rằng:

-Bạch Đức Thế Tôn! Nếu chư Bồ Tát từ sơ phát tâm cho đến thành được Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác, mà ở trong ấy tùy chỗ tạo tác vô lượng tùy hỉ căn lành; nhưng chư Bồ Tát ấy chẳng nghe, chẳng biết, lại chẳng nhiếp thủ, nên biết họ vì bị ma ám!

Phật bảo:

-Nầy Kiều Thi Ca! Nếu Thiện nam tử, Thiện nữ nhơn muốn mau chứng được Như Lai Chánh Đẳng Chánh Giác, nên phát tâm Đại Thừa tùy hỉ, đối với Thanh Văn, Bích Chi Phật thừa, không nên tham đắm, lại cũng chẳng xả ly, mà hay cùng với họ phát tâm tùy hỷ, nên biết người nầy sanh nơi nào cũng thường được mười điều lành, được nhiều sự cúng dường cung kính, tôn trọng tán thán. Đối với sắc, thanh, hương, vị, xúc, chẳng phải chẳng có ý, vĩnh viễn xa lìa ác đạo; được sanh lên cõi trời. Vì sao thế?

Vì người nầy , chỗ tạo tác được lợi ích làm cho các chúng sanh đều được khoái lạc, mà thiện căn có thể làm cho những người trong vô lượng a tăng kỳ, phát tâm tùy hỷ, sẽ chứng được Bồ Đề.”

Kinh chép rằng: “Nầy Tu Bồ Đề! Giả sử trong hằng hà sa số ba ngàn đại thiên thế giới, tất cả chúng sanh, đều phát A Nậu Đa La Tam Miệu Tam Bồ Đề Tâm mà mỗi mỗi hằng hà sa kiếp đó tu bốn loại thiền định, an trụ tịch tĩnh, lìa những tư tưởng động loạn.

Đại Bồ Tát tu tập Bát Nhã Ba La Mật Đa ấy có thể dùng phương tiện thiện xảo để nhiếp giữ quá khứ, vị lai, hiện tại Chư Phật, chỗ tu định huệ, giải thoát, giải thoát tri kiến. Đối với Duyên Giác thừa và Thanh Văn thừa , có giới, định, huệ, giải thoát, giải thoát tri kiến; như thế nhiều loại căn lành tập hợp xưng tán, cao tột, tối cực tối thắng, tối sâu rộng, vì vô lượng không thể so sánh tâm; tất cả đều tùy hỷ. Lại như tùy hỷ căn lành nầy hồi hướng đến vô thượng chánh đẳng Bồ Đề.

Nầy Tu Bồ Đề! Điều nầy sẽ được phước đức hơn trước. Đấy là Bồ Tát tu công đức định, mà chẳng thể so sánh được, trong trăm phần chẳng bằng một”.

Luận rằng:

Điều nầy đem hồi hướng việc làm cứu cánh khuyến thỉnh công đức.

Như Kinh Tối Thượng Vấn (Ugra Pariprccha) chép: “Nếy hay giữ gìn Chánh Pháp; là đối với vô số lượng Chư Phật sát độ, hộ trì gìn giữ mạng mạch của Phật Pháp vậy”.

Niệm Tam Bảo (Ratnatrayanusmrtirnamastadasah Paricchedah) – Phẩm Thứ 18. Phần 1

Luận rằng:

Làm sáng Hạnh Phổ Hiền, dần dần được tăng phước. Ở đây chẳng nói riêng biệt nguyên nhân, mà có thể theo nghĩa rộng do niềm tin thường hay tu tập. Như Kinh Bí Mật Đại Thừa chép rằng:”Phật bảo: Nầy Đại Vương! Ngài biết rằng có bốn loại Pháp, có thể như thế mà thực hành, tức là an trụ nơi chí hướng Đại Thừa, con đường rõ ràng với những Pháp lành, chẳng hoại diệt. Thế nào là bốn?

Nầy Đại Vương! Một là niềm tin có thể hướng đến con đường cao cả. Thế nào là tin mà có thể tin được? Có thể tùy thuận các Thánh Chủng, chỗ chẳng nên làm thì không làm.

Hai là tôn trọng có thể hướng đến con đường cao cả, mà tôn trọng vậy. Đối với các bậc Thánh, nói Diệu Pháp nghe hiểu rõ ràng.

Ba là chẳng kiêu mạn, có thể hướng đến con đường cao cả, mà không kiêu mạn vậy. Nghĩa là có thể ở nơi Thánh Chúng, cung kính, tín thọ đảnh lễ.

Bốn là tinh tấn, có thể hướng đến con đường cao cả, gọi là tinh tấn vậy. Nếu thân không khổ, tâm tất được nhẹ nhàng, chỗ thực hành những pháp lành đều được thành tựu biện tài”.

Luận rằng:

Ở đây nói về lòng tin, thường nên tu tập như thế. Giải thêm rõ ràng về niềm tin của năm căn. Như Kinh Vô Tận Ý nói rằng: Thế nào là năm căn? Đó là : Tín căn, Tấn căn, Niệm căn, Định căn và Huệ căn. Thế nào là Tín căn? Nghĩa là nơi bốn Pháp sâu nhẫn an vui.

Một là đối với sinh tử; trong đời làm việc Chánh hạnh, tin nghiệp báo, do tạo nghiệp mà nghiệp ấy có định sẵn. Cho đến khi mạng chung rồi chẳng tạo tội.

Hai là tin vui nơi Bồ Tát thực hành Chánh hạnh; chẳng cầu dư thừa chẳng tùy theo sự thấy.

Ba là nơi thắng nghĩa, rõ biết vô ngã, chúng sanh, thọ giả. Chúng sanh đều là không, vô tướng, vô nguyện . Các Pháp thâm sâu có thể tin hiểu.

Bốn là đối với Phật công đức lực, chẳng sợ hãi, khởi niềm tin quyết định, đoạn trừ tất cả các lưới nghi. Đấy có tin là Tín căn.

Thế nào là Tấn căn? Đối với Pháp Tín căn mà tu Pháp nhiếp thọ; siêng năng dõng mãnh chẳng gián đoạn, gọi là Tấn căn.

Thế nào là Niệm căn? Đối với Pháp Tín căn, tu pháp nầy, cuối cùng chẳng quên mất, gọi là Niệm căn.

Thế nào gọi là Định căn? Đối với Pháp Niệm căn, nhiếp thọ pháp này một lòng chẳng đoạn, gọi là Định căn.

Thế nào là Huệ căn? Đối với Pháp Định căn, nhiếp thọ pháp nầy, tự nơi ấy quán chiếu chẳng từ chỗ khác mà giải bày, gọi là Huệ căn. Đây là năm căn tương tục mà khởi, tức có thể đầy đủ tất cả Phật Pháp”.

Luận rằng:

Lại nữa đối với Pháp tín lực, thường nên tu tập. Như Kinh Bảo Kế chép: “Nầy Thiện nam tử! Năng lực của Bồ Tát thực hành hạnh thanh tịnh như thế nào? Đó là không bị các căn làm khiếp nhược; không bị các ác ma làm loạn động; không bị thối chuyển tâm đối với các thừa Thanh Văn, Duyên Giác và Bồ Tát; không bị các phiền não phá hoại; mà hoàn toàn an trụ vào Đại Thừa. Ngoài ra, sở nguyện được viên mãn, tâm thường thanh tịnh dõng mãnh, mật hộ cho thân căn cũng thường thanh tịnh”.

Luận rằng:

Năng lực của các căn: Tín căn, Tấn căn v.v…làm cho họ thường tu tập. Những gì tu tập hạnh từ bi, làm cho công đức tăng trưởng. Như Kinh Nguyệt Đăng có kệ rằng:

“Dầu cho trong vô lượng cõi Phật

Đem hết bao nhiêu đồ cúng dường

Phụng cúng hết thảy Chư Như Lai

Không bằng chỉ có chút lòng lành.”

    Xem thêm:

  • Luận Đại Thừa Bảo Yếu Nghĩa - Luận Tạng
  • Luận Tối Thượng Thừa - Luận Tạng
  • Đại Thừa Khởi Tín Luận - Luận Tạng
  • Luận Nhập Đại Thừa - Luận Tạng
  • Ý Nghĩa Quyết Định Của Pháp Hoa Huyền Tán - Luận Tạng
  • Đại Thừa Kim Cang Kinh Luận - Luận Tạng
  • Luận Đại Thừa Khởi Tín - Luận Tạng
  • Luận Về Đại Thừa Duyên Sanh - Luận Tạng
  • Luận Đại Trí Độ (Trọn bộ 5 tập) - Luận Tạng
  • Luận Kim Cang Đỉnh Du Già Trung Phát Tâm A Nậu Đa La Tam Miệu Tam Bồ Đề - Luận Tạng
  • Luận Đại Tông Địa Huyền Văn Bổn - Luận Tạng
  • Luận Du Già Sư Địa - Luận Tạng
  • Luận Tịnh Độ Thập Nghi - Luận Tạng
  • Đại Thừa Tuyệt Đối Luận - Luận Tạng
  • Đại Thừa Phật Giáo Tư Tưởng Luận - Luận Tạng
  • Giảng Luận Và Giải Thích Luận Nhiếp Đại Thừa - Luận Tạng
  • Sớ Thần Bảo Ký Nhơn Vương Hộ Quốc Kinh Bát Nhã Ba La Mật - Luận Tạng
  • Luận Tâm Bồ Đề Lìa Hình Tướng - Luận Tạng
  • Bài Tán Tâm Kinh Bát Nhã Ba La Mật Đa (Bản 1) - Luận Tạng
  • Thích Nghĩa Luận Nhiếp Đại Thừa - Luận Tạng