Quyển 13
Tinh Tấn Ba La Mật Đa – Phẩm thứ 10
Luận rằng:
Tuy nghe nhẫn như thế để phát sanh tinh tấn , mà ở đây chưa nghe khởi lên hủy báng sai phạm. Như Kinh Nguyệt Đăng có kệ rằng:
Ưa Pháp chẳng hộ giới
Thì được phước bao nhiêu
Phá giới từ nghe nhiều
Chẳng thể trừ ác đạo
Luận rằng:
Do nghe đầy đủ. Kinh Na La Diên Sở Vấn chép rằng: “Nầy Thiện nam tử! Như chỗ nghe thấy hiểu biết được hơn cả tánh trí huệ. Nếu nghe rồi liền tiêu trừ phiền não, làm cho phiền não ma hoàn toàn chẳng được dễ dàng khởi”. Kinh Quảng Như Tối Thượng Đại Tiên Bổn Khởi (Atraca Maharse Ruttarasya Jatakam Vistarena Krtvaha) chép rằng: “Đại Bồ Tát đầy đủ thâm tâm tôn trọng ưa Pháp, đối với thế giới hiện trước chư Phật, tùy theo đó mà nghe Pháp. Nếu Đại Bồ tát siêng năng muốn nghe Pháp, dù ở nơi núi thẳm vẫn có chứa nhiều pháp, được vô lượng kinh điển pháp môn an trí tại đó. Lại nữa chư Bồ Tát siêng năng muốn nghe Pháp, mà đối trước chư Phật cùng chư Thiên và chư Phật biện tài, cho đến khi sanh mạng hết rồi, vì Phật Thế Tôn và Chư Thiên, làm tăng mạng sống cùng sắc lực. Ở đời cả ngàn năm chẳng cần việc gì cả, vì do Phật và chư Thiên đều cùng gia trì vậy. Cho đến cầu một kiếp cùng chư Bồ Tát sanh tâm tôn trọng pháp. Vì Phật Thế Tôn đã trừ các khổ già, bệnh, được chánh niệm và thần thông biện tài, cho đến được thọ chánh kiến tùy theo sự thấy mà có thể nói. Lại nữa Đại Bồ Tát siêng năng muốn nghe Pháp, không bị các ác cùng tất cả những oán địch khủng bố. Cho nên sự siêng năng nghe nhiều là Bồ Tát khéo tu tập được như thế đấy”.
Luận rằng:
Bồ Tát nghe bao nhiêu loại thì nhập vào Luật (Kimakaram Srutam Bodhisatvavinaye Prasastam), như Kinh Vô Tận Ý chép rằng: “Do nghe 80 hạnh mà có thể vào được giải thoát. Nghĩa là những hạnh mong muốn; hạnh sâu sắc nơi tâm; hạnh thâm nhập của tâm; hạnh cực tương ưng; hạnh chẳng quấy rầy; hạnh chẳng buông lung; hạnh cung kính; hạnh cực tôn trọng; hạnh lìa danh tướng; hạnh nói lời lành; hạnh thừa sự; hạnh mghe lợi ích; hạnh tác ý; hạnh chẳng tán loạn; hạnh vô trụ; hạnh bảo tưởng; hạnh dược tưởng; hạnh tiêu trừ tất cả tật bệnh; hạnh nhớ nghĩ đến vật dụng; hạnh đạt giải thoát; hạnh ý hỷ; hạnh ngộ nhập; hạnh nghe Phật Pháp chẳng xa lìa; hạnh xả ly; hạnh liễu tri điều phục; hạnh thân cận đa văn; hạnh hỷ lạc chấp nhận các việc làm; hạnh thân mạnh khoẻ; hạnh tâm vui vẻ; hạnh nghe chẳng giải đãi thối lui; hạnh nghe nghĩa; hạnh nghe pháp; hạnh nghe oai nghi; hạnh nghe người khác nói; hạnh Diệu Pháp chưa nghe; hạnh nghe thần thông; hạnh chẳng vui với thừa khác; hạnh nghe các Ba La Mật; hạnh nghe Bồ Tát Tạng (Bodhisattva-Pitaka); hạnh nghe nhiếp sự (Samkraha-Vastu); hạnh nghe phương tiện thiện xảo; hạnh nghe phạm hạnh; hạnh nghe chánh niệm chánh tri; hạnh nghe rồi sanh thiện xảo; hạnh nghe chưa sanh thiện xảo; hạnh quán bất tịnh; hạnh quán từ bi; hạnh quán duyên sanh; hạnh quán vô thường; hạnh quán khổ; hạnh quán vô ngã; hạnh quán tịch diệt; hạnh quán Không, Vô Tướng, Vô Nguyện, hạnh vô tác; hạnh làm lành; hạnh kiến lập chơn thật; hạnh chẳng mất mát; hạnh một mình; hạnh gìn giữ tự tâm; hạnh siêng năng chẳng giải đãi; hạnh quan sát các Pháp; hạnh đối trị những phiền não; hạnh mong cầu các thiện pháp; hạnh hàng phục các phiền não của người khác; hạnh nương vào thất tài; hạnh đoạn trừ sự bần cùng; hạnh tán thán sự hiểu biết; hạnh ca ngợi người trí; hạnh thánh chúng bình đẳng; hạnh chẳng phải Thánh làm tịnh tín thân tâm; hạnh thấy như thật; hạnh xa lìa các uẩn mất mát; hạnh xưng lượng pháp hữu vi mất mát; hạnh nương vào nghĩa; hạnh nương vào pháp; hạnh tất cả ác tác; hạnh vì sự lợi ích của mình và người; hạnh ở nơi pháp lành tu tạo chẳng sanh nghiệp; hạnh thú hướng thù thắng; hạnh được tất cả Phật Pháp.
Kinh chép rằng: “Nếu có trợ pháp tương ưng tức được trí nghiệp như thế. Thế nào gọi là trợ pháp tương ưng ? Nghĩa là nếu có ít ham muốn sự cầu mong cũng ít, chẳng nói lời sân si. Đầu đêm cuối đêm nghe việc thế gian thuận theo thích ứng. Gọi là lợi tha cho nhiều sự yêu cầu. Tâm chẳng ô nhiễm; trừ được các chướng ngại. Nơi những tội lỗi khác, biết được mà rời bỏ, chẳng khởi tâm ác. Phát khởi thú hướng kiên cố giữ chánh hạnh, vui nơi pháp, cung kính pháp làm chỗ che chở nơi pháp, đầy đủ siêng năng như cứu lửa cháy trên đầu, mong cầu trí tuệ, chẳng dừng nghỉ nơi nào, chẳng rơi vào cấm giới, chẳng bỏ việc nặng nhẹ. Chỉ phát tâm thù thắng xả ly; chẳng hại chúng sanh, giữ chánh hạnh vui riêng mình, tất cả nơi A Lan Nhã hiện tiền tác ý tạo hạt giống công đức. Vui vừa chẳng quá; Vui Pháp hỷ lạc; Chẳng nghĩ đến lời nói của thế gian. Cầu pháp xuất thế gian chẳng vọng nghĩ, hiểu rõ hết nghĩa lý, để thuận theo con đường chơn chánh. Biết giữ giới nương theo mô phạm trang nghiêm. Trí tuệ vững chắc phá diệt vô trí, dùng mắt trí tuệ cực diệu thanh tịnh rõ biết vô minh si ám trói buộc. Nghĩa là hiểu biết một cách rõ ràng; chẳng tà mị, tất cả đều rõ biết. Phân biệt biết rõ rồi, hiện chứng đều rõ biết đó. Không từ người mà được; giữ riêng công đức mình, tán thán công đức người. Khéo tu các việc chẳng đọa vào nghiệp báo. Đây là trí nghiệp thanh tịnh”.
Lại nữa Kinh Bát Nhã (Jnana-Vaipulya-Sutra) chép rằng:”Nên nghe Kinh Phương Tiện Luận, nên biết và học điều nầy. Không phải việc lợi ích lại cũng nên xa lìa”.
Cho nên Thế Gian Xứ Luận (Lokayatasasta); Cách Phó Luận (Dandanitisastra); Trùng Độc Luận (Kakhorda-sastra); Mặc Trí Luận (Vadapadavidyasastra); Đồng Tử Hý Kịch Luận (Kumamakridasastra), các Luận Biệt Bộ Giải Thoát nói rõ ràng chỗ si mê, khéo trụ tất cả Bồ Tát Thừa. Tất cả nên xa lìa.
Lại Kinh Vô Tận Ý chép: “Có bốn loại thí mà Pháp sư nói pháp vì trí tuệ làm tư lương mà được thành tựu. Thế nào là bốn?
1. Lấy bút giấy chép Kinh
2. Trang sức nơi Pháp tòa
3. Đầy đủ tiếng tăm lợi dưỡng
4. Nhiếp thọ các pháp mà chẳng siểm nịnh xưng tán.
Lại nữa có bốn sự giữ gìn. Thế nào là bốn?
1. Gìn giữ tự thân
2. Gìn giữ những điều lành
3. Gìn giữ thế gian
4. Gìn giữ những việc lợi ích
Cho đến có bốn loại trụ vì trí tuệ làm tư lương mà được thành tựu. Thế nào là bốn?
1. Trụ nơi vị Pháp Sư thuyết pháp
2. Trụ nơi Pháp
3. Trụ nơi lợi dưỡng
4. Trụ nơi Giác ngộ
Đây có tên là bốn loại.”
Lại Kinh Hoa Lầu Các chép: “Nếu có người đem của bảy báu sánh với núi Tu Di mà bố thí cho tại gia Bồ Tát chẳng bằng ngàn đồng tiền lẻ để phụng thí cho xuất gia Bồ Tát và kính tín hiểu rõ công đức của vị xuất gia. Bố thí một vật dụng nhỏ như móng tay cũng gọi là khó bố thí. Nếu các sở hữu, tuy trừ người xuất gia được quả lớn nầy, như Như Lai tối thượng tối thắng, chẳng phải như người tại gia như điều nầy huống nữa người tại gia chẳng có trí tuệ, tâm chẳng đầy đủ”.
Như Kinh Tối Thượng Vấn chép: “Nghĩa là đối với tâm cùng quyến thuộc của người kia mà tội lỗi nên xa lìa. Nói rằng vô tội. Kẻ kia nếu chẳng xa lìa, tức khó thể điều phục tánh của mình. Người tại gia điều nầy trở thành tội”.
Nói về A Lan Nhã (Aranyasamvarnanam Namamaikadasah Parichhedah) – Phẩm thứ 11
Như Kinh Tối Thượng Thọ Sở Vấn chép rằng: “Nương vào A Lan Nhã lần lượt nơi gia đình, tánh ấy mất hẳn vậy”.
Như Kinh Nguyệt Đăng có kệ rằng:
Chẳng khởi trước dục
Xa lìa quyến thuộc
Rời bỏ tại gia
Được vô thượng đạo
Nếu lìa nơi dục
Như tránh hầm lửa
Sợ hãi tại gia
Xa lìa quyến thuộc
Vô thượng Bồ Đề
Thật chẳng khó được
Chưa hết ba đời
Chư Phật Như Lai
Do thường tại gia
Ở nơi chỗ dục
Mà hay rộng được
Thắng diệu Bồ Đề
Rời bỏ chức vua
Như bỏ đờm dãi
Ở yên nhàn rỗi
Xa lìa các dục
Đoạn trừ phiền não
Hàng phục ma oán
Lìa dơ vô vi
Ngộ Bồ Đề đạo
Ăn uống , quần áo
Hoa thơm ướp hương
Mà được thừa hưởng
Người trong bậc Thánh
Như kẻ xuất gia
Chánh pháp phụng hành
Nếu được như thế
Kẻ cầu Bồ Đề
Lợi ích chúng sanh
Chẳng có sợ gì
Một lòng yên tĩnh
Cho đến bảy bước
Đều được phước báo
Tối thắng chẳng bằng
Nếu lại gặp được
Chẳng cùng giống nhau
Nơi vui chẳng gặp
Bỏ tài cầu lợi
Tùy hạnh chúng sanh
Xa rời nơi kia
Khó mà tối tăm
Kinh lại có kệ rằng:
Biết chẳng khờ tranh cãi
Việc lợi nên xả bỏ
Lìa được tâm ác nầy
Chớ ngu cạnh tranh đấy
Người trí chẳng gần ngu
Rõ biết bản tánh ấy
Nên nói gần gũi lâu
Sau sẽ thành oán hận
Trí chẳng chấp nơi ngu
Rõ biết ngu bản tán
Vì thể tánh u tối
Tự sẽ phá hoại mình
Do đấy khác với kia
Thế nào Thiện tri thức
Nếu Pháp cùng nói đến
Chẳng cùng sân hòa hợp
Pháp ngu nầy tham độc
Cho nên trí chẳng giữ
Ngu cùng ngu hợp lại
Như phẩn, đồ bất tịnh
Trí cùng trí đầy đủ
Như sữa hợp với sữa.
Lại nữa Kinh cũng chép rằng:
Thường ở thế gian
Tối cực niềm vui
Có không nhiều ít
Vui hay chẳng vui
Chỉ ưa suối rừng
Tùy được thọ dụng
Sa môn vui hơn
Nếu ở nơi ấy
Tất cả đều không
Chẳng có mảy lông
Nơi bị trói buộc
Như gió thành không
Như cảm giác kia
Cho đến thế gian
Việc vui tột bực
Tâm thường như gió
Chẳng có đắm trước
Nếu vui chẳng vui
Chẳng có hòa hợp
Nghĩa đây khổ não
Chẳng vui an trụ
Nghĩa nếu vui kia
Chẳng khổ chẳng sai
Lìa hai bên vậy
Chỉ Pháp lạc nầy
Chẳng ai vui được
Kinh kia lại cũng nói rằng:
Kia được thường rồi
Bèn được tương ưng
Lìa khỏi mất mát
Chẳng tranh cãi gì
Lý tương ưng kia
Ở A Lan Nhã
Rộng được công đức
Mà không được thường
Chẳng cầu hình tướng
Chẳng vui thế gian
Chẳng tăng hữu lậu
Ở nơi núi rừng
Rộng được điều lợi
Chẳng khởi phân bua
Thường vui tịch tĩnh
Thân miệng ý mật
Làm việc xa lìa
Ở nơi yên tịnh
Rộng được công đức
Được chán lìa kia
Liền ngộ Pháp Phật
Tịch tịnh giải thoát
Ở nơi núi rừng
Tức nơi giải thoát
Các A Lan Nhã
Rộng được công đức
Nương vào núi đồi
Mà thường xa lìa
Thành ấp xóm làng
Vui xa lìa rồi
Thường như Độc giác
Chẳng có bạn lữ
Chẳng lâu vui riêng
Được chứng thắng định
Lại nữa Kinh Hộ Quốc có kệ rằng:
Xả bỏ tại gia
Mất mát rất nhiều
Lại thường chẳng yêu
Sâu xa tư lự
Vui được núi đồi
Các căn diệu lạc
Tịch tịnh công đức
Chẳng có nam nữ
Cười nói ngôn luận
Nếu có người đến
Xúc chạm với thân
Tâm tịnh chẳng nhiễm
Chẳng vui tài lợi
Ý chẳng đắm trước
Nơi nơi ít muốn
Thường lìa xa đây
Được cung kính thảy
Kinh Tối Thượng Vấn chép rằng:
“Ta chẳng làm cho chúng sanh tập họp, chẳng phải vì nơi một chúng sanh mà phát khởi thiện căn. Hoặc chấp chỗ nghe, đầy đủ trong khoảng sát na, tâm bị trói buộc vào tài lợi chẳng thanh tịnh, nên trời và người hay tất cả bỏ đi. Giả sử có một vị trời hay người lại chẳng bỏ đi”.
Như Kinh Bảo Lầu Các (Ratnakuta) chép:
“Phật bảo: “Nầy Ca Diếp! Nếu lại có người thiếu nước nhiều ngày khát mà chết. Nầy Ca Diếp! Sa Môn, Tỳ Sa Môn lại cũng như vậy. Từ nơi thọ trì đọc tụng nhiều pháp, mà chẳng thể đoạn trừ sự khát vọng tham, sân, si. Đi vào trong biển pháp lớn vì khát khao phiền não ái dục mà chết đi, sau đó đọa vào ác đạo”.
Luận rằng:
Cho nên quyết định nương vào nơi A Lan Nhã là chỗ tương tợ. Lại nữa Kinh Bảo Vân chép:
“Nếu ở nơi nào được đi khất thực chẳng gần chẳng xa, nước non ao tắm thanh tịnh chẳng dơ là nơi ít sợ hãi. Cây trái hoa quả đều có đầy đủ. Lại lìa những nhiễm ác như hang trùng độc, ở yên nơi đó. Bồ Tát như thế mà nương tựa vào để ở. Đầu tiên, ngày đêm sáu thời tự tụng kinh điển, nghe chẳng cao thấp. Khéo đóng chặt các căn , tâm chẳng lao chao. Đời sống thanh tịnh không nghĩ trói buộc, chẳng phải giữ việc lành nầy. chẳng bị ngủ nghỉ câu thúc. Lại nữa nhà vua, các quan, Bà La Môn, cho đến những gì thuộc về vua, hoặc vua đích thân đến nghinh tiếp nơi A Lan Nhã Tỳ Kheo nên nói rằng:
“Lành thay Đại Vương! Như chỗ bố thí. Ngài có thể đến ngồi”.
Nếu Vua ngồi rồi, Tỳ Kheo nên ngồi. Nếu Vua chẳng ngồi, Tỳ Kheo nên đứng. Nếu các căn của Vua động loạn, thì nên than rằng:
“Đại Vương được lợi ích lớn, nơi đất nước của Vua có các bậc Sa Môn, Bà La Môn đầy đủ giới đức, an trụ nơi đó, chẳng bị người ác kẻ giặc làm hại. Nếu các căn của Vua khéo nghe thanh tịnh, vì đó mà thuyết pháp, nên nói pháp phương tiện thiện xảo. Nói việc thiện xảo nếu vui chẳng vui pháp yểm ly. Phải biết, nếu chẳng vui Pháp yểm ly, làm cho vua biết Như Lai có đại từ bi đầy đủ uy đức, vì những người đến như Bà La Môn và các quan, mà Ngài tùy nghi hóa độ họ. Nếu là những người đa văn, pháp khí hiểu sâu, nên làm cho họ nghe diệu pháp để hàng phục tâm. Những chúng sanh tin vui pháp được đại hoan hỷ”.
Kinh Tối Thượng Thọ Sở Vấn chép rằng:
“Lại nữa Trưởng Giả xuất gia Bồ Tát ở nơi A Lan Nhã nên quán sát nghĩa như thế nầy:
Tại sao ta ở trong A Lan Nhã? Ta chẳng phải là độc cư Sa Môn nên nhiều sự ác hại vây khốn. Chẳng phải tu mật, chẳng phải tịnh; chẳng phải giữ luật nghi, chẳng phải tương ưng, chẳng phải cầu mong mà ở chung chạ. Nhưng ta không phải người cùng các ác điểu, thú dữ, đạo tặc, chiên đà la… cùng ở chung. Họ là những người không đầy đủ công đức của Sa Môn. Lúc ấy, ta ở nơi A Lan Nhã, ta đã đầy đủ nghĩa của Sa Môn. Lại nữa Trưởng Giả xuất gia Bồ tát hành hạnh A Lan Nhã nên như thế nầy mà quan sát:
Ta vì nghĩa gì mà đến A Lan Nhã? Ta có nên vì đó mà sợ hãi chăng? Vì sao mà sợ hãi? Nghĩa là ở nơi chúng yên tịnh mà sợ hãi; tập hợp mà sợ hãi; tham sân si mà sợ hãi; kiêu mạn che dấu mà sợ hãi; keo kiệt về tiền của mà sợ hãi; sắc, hương ,vị, xúc mà sợ hãi; uẩn ma mà sợ hãi; phiền não ma mà sợ hãi; tử ma mà sợ hãi; thiên ma mà sợ hãi; vô thường cùng thường khuynh đảo mà sợ hãi; vô ngã làm ngã khuynh đảo mà sợ hãi; bất tịnh làm tịnh khuynh đảo mà sợ hãi; chấp khổ làm vui khuynh đảo mà sợ hãi; tâm ý thức mà sợ hãi; lìa các chướng khởi chướng mà sợ hãi; thân kiến mà sợ hãi; ta và những gì thuộc về ta mà sợ hãi; nghi ở ba đời mà sợ hãi; ác hữu mà sợ hãi; quyến thuộc bọn ác mà sợ hãi; tiếng tăm và lợi dưỡng mà sợ hãi; chẳng thấy nói thấy mà sợ hãi; chẳng nghe nói nghe mà sợ hãi; chẳng biết nói biết mà sợ hãi; chẳng rõ nói rõ mà sợ hãi; Sa Môn dơ nhớp mà sợ hãi; sân hận với nhau mà sợ hãi; tam giới mà sợ hãi; sanh vào các cõi khác mà sợ hãi; ba đường ác mà sợ hãi. Nói tóm lại tất cả các việc bất thiện tác ý sợ hãi, ta vì sợ hãi những việc ác ấy nên đến ở A Lan Nhã.
Lại nữa Trưởng Giả! Xuất gia Bồ tát ở A Lan Nhã nên biết học xứ, hoặc sợ sanh ngã chấp khởi lên. Điều quan trọng là nơi A Lan Nhã xa lìa ngã chấp, tức vô ngã và không ngã sở; không ngã tướng; không ngã ái; không ngã tưởng; không ngã kiến. Chẳng phải vì những gì thuộc ngã mà mình giữ; Chẳng phải vì những gì thuộc ngã mà tính toán. Xả bỏ nơi ngã, chẳng nên giữ gìn. Ở nơi A Lan Nhã, chẳng nghĩ lợi ích. Lại nữa Trưởng Giả! Kẻ ở nơi nhàn tịch, chẳng tưởng đến mình, chẳng tưởng đến người khác. Nếu ở nơi các Pháp, chẳng nói; tức ở nơi các Pháp không tạp. Tóm lại, nầy Trưởng Giả, giống như nơi A Lan Nhã, có cỏ thưốc, cây cối trong rừng, chẳng kinh chẳng sợ, chẳng lo. Lại chẳng làm tổn hại đến mảy lông. Ở đây người xuất gia Bồ Tát trụ tại A Lan Nhã cũng như thế. Đối với thân phát khởi lên cỏ thuốc, cây cối như trong rừng, bờ tường, gạch ngói…để suy tưởng . Tâm như huyễn hóa sanh được những gì phân biệt và sợ hãi làm kinh động đến mảy lông , là thân tâm ở nơi thân mà quán sát thân nầy chẳng có ngã, nhơn, chúng sanh, thọ giả, dưỡng nuôi do ý sanh ra, cũng như mọi sự hy vọng biến đổi. Điều sợ hãi cũng chỉ là giả danh, hư vọng, biến hóa chẳng nên phân biệt. Như nơi A Lan Nhã, có cỏ thuốc cây cối, chẳng có chủ tể nênchẳng nhiếp phục. Ở A Lan Nhã nếu không có sự nhiếp phục lại cũng như vậy. Nơi các pháp như thế mà nên biết. Hãy khởi tâm làm như vậy. Vì sao vậy?
-Kẻ nhàn hạ giống như tử thi chẳng có chủ tể, lại chẳng có nhiếp phục.
Lại nữa Trưởng Giả! Người xuất gia Bồ Tát ở nơi nhàn nhã như thế, đã biết vậy rồi, nương vào lời Phật dạy nên ở nơi A Lan Nhã, nên đầy đủ Chánh Pháp, sâu trồng căn lành, sau đó mới ra khỏi nơi tụ lạc, quốc ấp, rồi vào trong vương cung mà thuyết pháp. Lại nữa Trưởng Giả! Xuất gia Bồ Tát đọc tụng diễn thuyết giải nói nghĩa thú đi vào trong chúng được cung kính, thân cận Hòa Thượng, A Xà Lê, và những kỳ lão mà các tân học Tỳ Kheo lại nên cung kính, chẳng nên giải đãi, hẳn nên tự biết chẳng làm phiền kia. Lại chẳng nên bảo người tôn trọng vâng phục. Hãy quán sát như thế. Lại nữa Như Lai Ứng Đẳng Chánh Giác được chư Thiên, loài người, ma Phạm Thiên, Sa Môn, Bà La Môn và các chúng sanh tôn trọng cúng dường, cho chí những vật sở hữu tự làm việc biện tài chẳng mưu cầu phụng sự. Huống nữa, ta làm cho tất cả mong muốn cầu học, vô học như thế phụng sự tất cả chúng sanh. Nếu ta phục vụ kẻ khác bằng sự cung cấp; tức ta cùng họ làm việc thành tựu, chẳng phải mưu cầu sự phụng sự cung cấp . Vì sao thế?
Nầy Trưởng Giả! Sự tôn trọng phụng sự nầy ở nơi công đức Pháp của Tỳ Kheo chấp thủ hay hủy phạm, tạo cho kẻ giữ gìn nầy, nguyên nhân được phụng sự vậy. Ta chẳng do Pháp ấy mà tạo ra sự chấp thủ như thế.
Kinh lại chép: “Lại nữa Trưởng Giả! A Lan Nhã nơi pháp Bồ Tát , nếu thấy, nếu nghe Hòa Thượng , A Xà Lê tật bệnh ở nơi riêng lẻ nên đến thăm viếng hỏi han, nghĩa là tùy lúc tùy thời niềm nở, nên phát tâm như thế. Giả sử vì kia thỉnh mời đọc tụng nói pháp làm cho ở nơi tăng phường ấy như chỗ A Lan Nhã, thì tâm chớ khởi thọ dụng đắm trước. Việc ở A Lan Nhã cầu pháp như thế, chẳng lìa bỏ tất cả mọi sự mà đều nhớ nghĩ đến chỗ an vui tịch tịnh”.
Quyển 14
Thuyết A Lan Nhã – Phẩm thứ 11. Phần 2
Kinh Bảo Tích chép rằng:”Lại nữa kẻ ở A Lan Nhã làm các việc khác chưa được chứng quả, thấy cọp sói chẳng nên sinh tâm kinh sợ, nên phát tâm rằng ta trước khi đến chỗ nầy là để xả bỏ thân mệnh chẳng phải sợ hãi, vì khởi tâm từ xả bỏ; nên chẳng sợ hãi. Lại nữa cọp sói dẫu có ăn mất mạng sống ta, thì cho luôn thân thịt nầy, nên khởi tâm như vậy. Nếu ta được thiện lợi cũng chẳng giữ thân cho được vững chắc làm gì. Nếu chẳng có thể cống hiến thân thịt của ta, há cọp có được vui chăng? Điều quan trọng là kẻ ở A Lan Nhã, có hoặc không có người đến, hoặc tốt, hoặc xấu, chẳng nên ưa mến; cũng chẳng bị tổn hại. Nếu có sự đến đi thấy như chư Phật và chư Thiên đến nơi A Lan Nhã.
Có Tỳ Kheo khởi hỏi vấn nạn thì Tỳ Kheo kia như khả năng nên đáp; tùy chỗ học pháp mà vì chư Thiên giảng. Lại nữa nếu có hỏi sâu khó A Lan Nhã Tỳ Kheo hoặc chưa thể đáp, mà vẫn sanh tâm cung kính. Nên nói với kẻ kia rằng ta nay chưa được vô học vì ta chỉ tinh cần theo lời Phật dạy. Khi nghe Pháp rồi, hết lòng giải đáp cặn kẽ tất cả mọi nghi vấn. Ta chỉ làm cho kẻ hỏi nghe được pháp tổng quát, nếu ở nơi A Lan Nhã, thuốc cây cỏ nên chẳng lấy đi mà đắm nhiễm, thì làm sao có sanh có diệt.
Quán sát như thế, thân nầy vô ngã, vô chủ tể, vô tác giả, vô thọ giả. Ai sanh, ai diệt, cuối cùng rồi chẳng có sanh diệt gì cả. Thân nầy lại cũng như thế; giống như cỏ cây bờ tường như ngói gạch vô ngã, vô chủ tể, vô tác giả, vô thọ giả. Do nhân duyên hòa hợp mà sanh, nhân duyên ly tán liền diệt. Lại nữa ở nơi thắng nghĩa, chẳng có một pháp nào sanh, cũng như chẳng có pháp diệt.”
Kinh cũng chép rằng: “Lại nữa đối với A Lan Nhã nên phát tâm như thế nầy : Ta đến A Lan Nhã nầy không gặp bạn bè, hoặc nơi ta khởi nghĩ việc làm thiện, việc làm ác… Lúc bấy giờ có Thiên long, Dạ xoa cùng Phật Thế Tôn biết được thân tâm của ta, liền vì đó mà chứng cho. Lại nữa, nếu ở A Lan Nhã, mà tâm chẳng thiện, buông lung phóng dật. Ở nơi rất xa nầy chẳng có bạn lữ, chẳng có người thân, không ngã, không chấp…mà nên thật quán; vừa dục, vừa sân, trừ hại và trừ các bất thiện khác cũng như thế mà thật quán. Nếu ta vẫn chẳng khác với niềm vui của chúng hữu tình , náo loạn tức làm cho Thiên long, Dạ xoa và chư Phật, Thế Tôn giận. Nếu làm như vậy Thiên long, Dạ xoa chẳng gọi là xa rời. Như thế chư Phật Thế Tôn đều hoan hỷ.”
Trị Tâm (Citta Parikarma Devadesah Paricchedah) – Phẩm thứ 12
(Phụ vào phần Thiền Định Ba La Mật)
Luận rằng:
Đối với A Lan Nhã tu tập thiền định. Như trong Kinh Bát Nhã chép:”Tu thiền định Ba La Mật được tâm chẳng tán loạn, lợi ích chúng sanh. Vì sao vậy? Khởi thế gian định, việc làm như thế làm cho tâm tán loạn chẳng thể được. Huống nữa vô thượng chánh đẳng Bồ Đề phải được tâm chẳng tán loạn, cho đến chứng được quả A Nậu Đa La Tam Miệu Tam Bồ Đề”.
Kinh cũng chép:”Lại nữa Tu Bồ Đề! Sơ phát tâm Đại Bồ Tát tu hạnh thiền định Ba La Mật, ở nơi tất cả tướng trí đều tương ưng hoà hợp, nghĩa là khéo nhập vào thiền định. Nếu mắt thấy màu sắc chẳng nên giữ tướng nầy , cũng chẳng chấp lấy theo hình tốt đẹp. Lại nhãn căn, không tự dừng nghỉ, tức vương vào tà vọng, tổn não. Nơi việc ác chẳng thiện, tâm theo đó mà trôi nổi, giúp đỡ nhãn căn chế ngự điều nầy làm cho dứt hẳn. Như vậy nơi lỗ tai nghe âm thanh, lỗ mũi cảm được mùi hôi thối; lưỡi rõ biết rõ vị; thân đắm trước sự va chạm; ý biết được các pháp; tất cả đều chẳng chấp tướng, lại chẳng chấp thủ, mà tùy theo hình thể tốt đẹp. Nơi ý căn, chẳng dừng nghỉ; tức việc ác chẳng lành, phi pháp tâm nương theo đó mà lưu chuyển; giúp cho ý căn chế ngự điều nầy làm cho mất đi; lúc đi, đứng, nằm, ngồi , nói năng , giữ yên lặng, tất cả đều chẳng xa lìa chánh định. Chân tay chẳng dao động, miệng chẳng nói lời tạp. Lại chẳng cười giỡn, các căn chẳng rối loạn. Nếu thân tâm đều chẳng quên sót, ba nghiệp thanh tịnh; nơi hiển mật như phép luật nghi cho chí vui dễ dàng đầy đủ sung mãn. Khéo nhập vào nơi hành xứ xa lìa nơi ồn ào. Chỗ được, chỗ chẳng được không có cao thấp cùng chẳng có sai biệt. Như thế khổ vui, hủy báng, danh dự; hoặc tán thán, chẳng tán thán, hoặc trời, hoặc người, chẳng cao thấp và chẳng sai biệt. Hoặc kẻ oán , hoặc người thân, tâm thường tự nhiên, là thánh, chẳng thánh, nghe xong chẳng lẫn tạp. Nơi vui chẳng vui giống như một tướng; chẳng cao chẳng thấp đều không sai biệt, vượt hẳn sai đúng. Vì sao thế: Nơi tự tướng không, như chẳng chơn thật tức là thấy các pháp chẳng sanh chẳng diệt cho đến nói rộng ra”.
Luận rằng:
Vui vẻ tu tập là xa lìa sự giải đãi và thối lui mà thường hay dụng ý tức trừ được cống cao. Đây là hai loại để đối trị. Kinh Hộ Quốc có kệ rằng:
Vô lượng vô số kiếp
Có chư Phật ra đời
Do đây đấng Đại Giác
Mỗi mỗi làm đại lợi
Xa lìa mọi phóng dật
Giải thoát những nhiễm dục
Đây đều hư vọng cả
Như huyễn mộng đã thấy
Xa rời chẳng ở lâu
Các ái lại chẳng thường
Như lực xưa muốn lại
Ở nơi Ba La Mật
Cho đến ngộ Bồ Đề
Siêng năng chẳng nghi hoặc
Kinh Đại Hý Lạc (Lalita Vistara) nói rộng kệ nầy như sau:
Lão, bệnh, tử, khổ
Như lửa cháy đầu
Ba cõi chẳng yên
Vô định không lường
Chưa lìa luân hồi
Thường nơi ngu tối
Giống như ong điên
Vào trong chỗ nhốt
Ba cõi vô thường
Như hài kịch vui
Mùa thu không mây
Lúc sanh lúc diệt
Đời người qua mau
Giống như sông núi
Trôi qua nhẹ nhàng
Như trời phát quang
Thiên giới không tường
Vào ba cõi ác
Vô minh liền khởi
Ái hữu lại sanh
Sa vào ngũ thú
Như nhà làm gốm
Thường ưa màu đẹp
Như tiếng vọng hay
Trong sạch mùi hương
Vui say tiếp xúc
Đắm đuối tham trước
Như bị ở tù
Như hươu đi võng
Như khỉ bị trói
Thường mong lo sợ
Nghĩ chuyện oan gia
Kẻ dục lạc nầy
Thường nhiều ưu não
Như gặp dao bén
Lại như độc dược
người trí xa lìa
Như bỏ đồ dơ
Ngu mới tham đắm
Nhơn là lo sợ
Khổ là gốc rễ
Ái bị ràng buộc
Bịnh chết và già
Thường vui dục lạc
Sợ chẳng nương về
Xưa có thánh nhơn
Rõ biết dục nầy
Sợ như lửa cháy
Như nơi bùn lầy
Tựa giữ mật ngọt
Nếu gặp không hiểm
Lại với người trí
Rõ biết hiểm nguy
Như đồ nhơ uế
Tựa đầu rắn độc
Cây thối nặng mùi
Tẩm máu vào người
Như đầu chó chết
Như ác oan gia
Lại các bậc Thánh
Rõ biết dục nầy
Giống nước trong trăng
Như tiếng trong núi
Như ảnh trong gương
Như kẻ hí luận
Như mộng đã thấy
Lại dục lạc nầy
Kẻ trí ngộ rồi
Như huyễn như lửa
Như nước bọt bèo
Sát na ở đó
Thay đổi khởi lên
Hư vọng chẳng thật
Ngày tháng trôi qua
Sắc tướng thay đổi
Ý vui người nầy
Là kẻ ngu phu
Cùng lão bệnh đến
Hội khổ chẳng chừa
Thối thất chọn lựa
Trong sông bị khát
Tài lực phong phú
Kho đụn tích chứa
Niềm vui kẻ nầy
Thật như kẻ ngu
Hoặc lại cất giữ
Bịnh đến rồi chết
Lìa bỏ mọi người
Như vườn không cây.
Kệ rằng:
Giống như cây hoa quả
Ái lạc người chấp trước
Bần khổ già suy nhược
Buông xả như chim câu
Tài sản trang sức đẹp
Vui sanh ý hòa duyệt
Bần khổ cùng già chết
Xa lìa như tử thi
Tướng già hiện tức thì
Năm tháng trải qua rồi
Giống như điện lửa chớp
Đốt tất cả cây khô
Già suy có thể sợ
Giống nhà cửa cháy bừng
Cho nên đức Thế Tôn
Khuyên xa rời chớ cầu
Lại như rừng Ba La
Vì bó chặt nơi quả
Nam nữ cùng quyến thuộc
Khô cằn sớm nên biết
Lại như chỗ bùn lầy
Làm bại những người mạnh
Tướng già cũng như vậy
Sức khoẻ chẳng tiến thêm
Già biến hình hài đến
Suy thế lực oai hùng
Tìm đến niềm vui lâu
Chỗ chết chẳng ánh sáng
Trong bệnh khổ não loạn
Chẳng phải là niềm vui
Là tướng của thế gian
Đốt cháy như mãnh thú
Xem nơi già bệnh khổ
Là khổ não thế gian
Đều bỏ tìm niềm vui
Khuyên mau cầu ra khỏi
Lại như sương cùng tuyết
Phủ lên trên cỏ cây
Bịnh khổ ở thế gian
Mệnh căn hoại suy yếu
Của cải chất chứa nhiều
Tìm cầu thật xa vời
Thường như người mang bịnh
Hay khởi việc sân hận
Hoặc oán hại kẻ kia
Nóng nảy như trời đốt
Cho đến khi chết đi
Tài mạng đều tan hoại
Giống nước chảy chẳng được
Quả lá rơi xuống gốc
Như dòng sông trôi chảy
Đắm chìm chẳng tự tại
Tùy nghiệp quả khó dừng
Độc hành chẳng bạn bè
Pháp sanh diệt tại đây
Lại như cá với nước
Ở nơi vô lượng chúng
Như đại bàng đớp rồng
Hoặc vua thú thành voi
Hoặc lửa cháy mạnh mẽ
Thiêu đốt những cỏ cây.
Lại nữa, Kinh Giáo Thị Thắng Quân Đại Vương (Rajavavadaka-Sutra) chép rằng: “Phật bảo: “Nầy Đại Vương! Giống như bốn phương có bốn núi kiên cố chắc thật, vây bọc chung quanh. Lại được tạo thành không biết bao nhiêu vật chẳng gián đoạn. Nơi cảnh không ấy, tất cả động thực vật đều đi về chỗ hoại diệt; ai có sức lực mà có thể vượt được. Lại nữa, những thần chú dược thuật, tài vật v.v..làm cho thối hư. “Phật bảo: “Nầy Đại Vương! Trong đời có bốn loại đáng sợ hãi như thế ai có thể vượt qua khỏi; mà nơi thế lực thần chú dược thuật, tài vật v.v..có thể làm cho thối chuyển? Thế nào là bốn? Đó là suy, già, bệnh, chết.
Phật bảo:“Nầy Đại Vương! Một là khi thế lực suy vi đến thôi thúc hành hạ; hai là tướng già hiện ra thôi thúc không còn tráng lệ nữa; ba là bệnh khổ tập trung thôi thúc quẫn bách vây quanh; bốn là sự chết chóc đến, thôi thúc thọ mệnh. Vì sao vậy? Phật bảo:“Nầy Đại Vương! Như sư tử là vua của các loài thú, thân tướng dõng mãnh đầy đủ móng vuốt, răng nhọn là lợi thế giữa đám hươu non, bắt hươu tùy theo ý muốn, dầu hươu mạnh khỏe khi vào miệng mãnh thú, không thể chạy khỏi. Nầy Đại Vương! Mũi tên sanh tử bắn vào người lại cũng như vậy, làm cho con người không thể thoát chạy, chẳng nơi trở về, chẳng ai cứu giúp, lại cũng chẳng có chỗ gửi gắm. Mỗi mỗi thân phận mình như máu thịt khô cứng, đói khát nóng lạnh há miệng thở dài, tay chân bại hoại. Nơi tìm cầu, chẳng đâu có được, khóc lóc than trách, đại tiện, tiểu tiện, chẳng tịnh dơ nhớp thân thể. Mạng sống giảm dần, ở đó hiện ra, tùy theo nghiệp duyên mà khởi, đáng sợ hãi trước mặt Diêm Vương. Đêm dài tăm tối, hơi thở vào ra, từ từ cạn dần, chỉ có một mình độc hành chẳng có bè bạn, Bối cảnh lúc sanh, qua lại cuộc đời, thế nhưng đi trên con đường nguy hiểm vào chỗ tối tăm, nhằm nơi hoang dã, rừng rậm bao quanh . Biển nghiệp nổi trôi, gió thổi đọa lạc xua về nơi tối tăm chưa từng dừng nghỉ, chẳng có chỗ nương về, gửi gắm.
Phật bảo:”Nầy Đại Vương! Chỉ có Pháp và Pháp mới là chỗ đáng nương về tìm cầu gửi gắm. Đây là chỗ đáng tin cậy. Phật bảo:”Nầy Đại Vương! Đây là thiện pháp như mùa lạnh gặp được lửa, như mùa nóng gặp mát, như khát gặp nước uống trong lành, như đói gặp đồ ăn mỹ vị, như tật bệnh gặp lương y, như khi sợ hãi gặp được bạn bè có sức mạnh, đây là chỗ nương về.
Phật bảo: Nầy Đại Vương! Đây là những thiện pháp có đại thế lực, lại cũng như thế làm cho kẻ không có chỗ nương về có thể được nương về, không nơi gửi gắm được gửi gắm. Nầy Đại Vương cho nên phải rõ: Hiện ra vô thường, hiện ra sự diệt mất, mà pháp là như thế chỉ sợ khỏi chết.
Phật bảo: Nầy Đại Vương! Vua nương nhờ đó tức chẳng phải thiện pháp. Vì sao vậy? Nầy Đại Vương! Ở nơi thân nầy từ xưa đến nay, lo gia tâm bảo hộ giữ gìn trang sức đồ ăn uống, y phục đẹp đẽ, tâm tư gói trọn sung mãn cho đến khi mạng chung chưa khỏi được sự đói khát bức bách não hại mà chết. Như vậy thân nầy tuy khả ái dùng để trang sức đồ mặc, mùi thơm chải chuốc, đi đứng nằm ngồi tùy theo ý mà trang sức, nhưng khi mạng chung hôi thối chẳng thanh tịnh, đờm dãi chảy ra. Nầy Đại Vương! Lại nữa thân thể tuy tắm rửa, xoa hương, ướp các thứ hương hoa trang sức thật nhiều, đến khi mạng chung vẫn hôi thối chán ngấy. Lại như thân nầy, có hoàng hậu, thứ phi, cung nữ quyến thuộc vây quanh dù kỹ nhạc, ca múa hát xướng, cùng với tôi tớ an hưởng khoái lạc, đến khi mạng chung chưa hết sợ hãi cùng những khổ não.
Phật bảo: Nầy Đại Vương! Cho chí thân tuy ở cung điện, lầu các nguy nga dùng mọi đồ trang sức đẹp, tất cả đều tẩm hoa hương và đốt đèn sáng trang sức chỗ nằm ngồi đẹp đẽ, đốt các thứ danh hương, rải các hoa đẹp; hương thơm xông ngát khắp nơi nơi, gồm toàn những châu ngọc quý báu như lụa là rực rỡ vô cùng. Nhưng đến khi mạng chung tới mộ phần xương cốt thịt lông , thân thể máu huyết đều hôi thối, xác nằm trơ trên đất chẳng còn biết gì nữa cả.
Phật bảo: Nầy Đại Vương! Lại nữa thân nầy, thường ngự trên xa mã, đánh trống, thổi nhạc, làm đại âm nhạc, treo bảo cái, che quạt v.v…có voi mạnh và binh lính hầu hạ chung quanh trước sau, có cả trăm ngàn đại thần cùng dân chúng trong nước vòng tay cung kính đảnh lễ. Nhưng chẳng giữ tử thi được lâu trên xe, mà phải mang ra khỏi thành; tất cả cha mẹ vợ con, huynh đệ, chị em, nô tỳ cùng với những người tạo nghiệp khiến cho cả trăm người lâm vào chỗ ưu sầu. Đầu tóc bị loạn, giơ tay ôm đầu, buồn khóc thảm thương than thay khổ thay! Ta chẳng cầu, chẳng than, chẳng chủ, còn người trong nước thì sầu khổ luyến lưu. Qua một thời gian, hoặc để cho chim thứu, kênh kênh, chồn cáo, dã can ăn thịt, rồi đem xương cốt để đốt, hoặc chôn xuống đất, mưa gió sương sa lẫn với đất cát tan vào dần dần mục rã.
Phật bảo: Nầy Đại Vương! Thân nầy huyễn hóa chung cuộc rồi cũng hoại diệt. Tất cả các hành đều là vô thường do đó có thể nói rộng ra.”
Luận rằng:
Tham, sân, si là nơi chứa phiền não, thế thì sự đối trị tu tập là nguyên nhân để xa lìa chúng. Cho nên Kinh Bảo Vân chép: “Đối trị tham , là khởi niệm về duyên vào tham, tất cả đều nên xa lìa. Thế nào gọi là đối trị tham và khởi niệm đối trị duyên vào tham? Tham, nếu rõ biết đối với sự khởi xuất tham lam bởi duyên vào tu bất tịnh quán. Thế nào gọi là bất tịnh quán? Nghĩa là đối với thân, tóc ,lông, móng, răng, da, máu, thịt, gân, cốt, ruột, gan, mồ hôi, nước mắt, cổ yết hầu, tim, gan, nước tiểu, đờm, v.v..Bồ Tát đối với những vật như thế mà khởi lên quán sát tức đối trị ngu si điên cuồng bất thiện kia. Khi biết vật nhơ rồi, chẳng còn khởi tâm tham ái nữa, huống nữa là kẻ trí, Bồ Tát tu bất tịnh quán.”
Như Kinh Bát Nhã (Phagavati) chép rằng: Lại nữa Thiện Hiện! Đại Bồ Tát lúc tu Bát Nhã Ba La Mật Đa, như thế đối với thân nầy mà rõ biết. Nầy Thiện Hiện! Như trâu chúa và trâu con bị phanh thây bằng dao làm bốn phần; hoặc ngồi, hoặc đứng mà quán sát như thế. Nầy Thiện Hiện! Đại Bồ Tát lúc tu Bát Nhã Ba La Mật Đa hạnh, cũng như thế, đối với thân thể , địa, thủy, hỏa, phong, như thật mà quán sát. Lại nữa Thiện Hiện! Người nông phu hoặc Trưởng Giả chưa chắc đủ nhiều giống thóc; cho nên quán lúa gạo hạt giống đầy đủ. Kẻ có con mắt sáng, phân biệt rõ biết như thật, biết kia là hạt giống, đây là lúa mạch, đây là hạt cải v.v…
Nầy Thiện Hiện! Đại Bồ Tát tu Bát Nhã Ba La Mật Đa cũng như thế, đối với thân thể quán sát từ đầu cho đến chân, lông, tóc, móng tay, răng v.v…đều đầy dẫy sự bất tịnh. Bồ Tát quán sát thân nầy như thật, duy có tóc lông, móng tay, răng, đầu, mắt, ruột, tủy, gan v.v…chỗ tàng trữ ruột non, ruột già là đồ bất tịnh. Cho đến qua một thời gian, quán sát những tướng như thế nên để tử thi trong thời gian trải qua một ngày hai ngày cho đến năm ngày thân thể phình trướng, màu xanh hôi thối, da căng thịt nhũn, tanh mùi máu huyết. Thấy như thế, nghĩ rằng thân ta cũng giống như thế, mà kẻ mang thân nầy đối với Pháp cũng lại như thế, bản tánh như vậy. Pháp tánh như thế chưa từng giải thoát.
Lại nữa Thiện Hiện! Đại Bồ Tát lúc tu Bát Nhã Ba La Mật Đa cũng nên đối với ngoài thân quán sát để tu. Ngay cả việc quán sát tử thi ở nơi hoang dã, trải qua một ngày hai ngày cho đến bảy ngày, bị chim muông, chim cú, kênh kênh, chồn cáo, dã can, …đều đến ăn thịt, ngay cả trùng kiến cũng đến ăn thịt. Quán sát như thế để nghĩ rằng thân ta cũng như thế mà thân nầy các pháp cũng như vậy, bản tánh như thế, pháp tánh như vậy chưa từng giải thoát. Điều quan trọng là nếu quán sát sự bỏ tử thi kia ở nơi hoang dã, khiến trùng độc ăn, bất tịnh hôi thối. Thân ta và thân nầy cũng như thế, giống như trên đã nói. Lại nữa hướng đến chỗ thân khổ, quán sát sự lìa bỏ tử thi như thịt xương và máu huyết hiện bày nhơ nhớp, ta cùng với thân nầy cũng như thế. Ngoài ra, như đã nói trên lại hướng đến chỗ thảm khổ, quán tử thi máu thịt cùng với xương cốt hiện ra ràng buộc chằng chịt, thân ta và thân nầy như vậy, ngoài ra như đã nói ở trước. Lại nữa như hướng về sự sầu thảm kia mà quán sát sự xả bỏ tử thi, chỉ có xương cốt tan hoại khắp nơi, mà xương đầu, xương chân, xương lưng, xương vai, xương tay … thân ta và thân nầy lại cũng như vậy. Ngoài ra, như đã nói ở trước.
Lại nữa Thiện Hiện! Đại Bồ Tát khi tu Bát Nhã Ba La Mật Đa hướng về sự sầu thảm kia, nên quán sát như sự xả bỏ tử thi, duy chỉ còn xương sót lại, gió thổi mưa bay, làm trắng xoá xương cốt. Thân ta và thân nầy lại cũng như thế. Ngoài ra, như nói ở trên. Lại nữa Thiện Hiện, Đại Bồ Tát khi tu Bát Nhã Ba La Mật Đa hướng về sự thê thảm nầy nên quán sát chỗ xả bỏ tử thi, duy chỉ còn xương cốt lại. Trải qua nhiều năm biến thành màu xanh như bùn trong đất, rồi lại thành bột, thân ta và thân nầy lại cũng như vậy. Đối với thân nầy, pháp lại cũng thế. Bốn tánh như vậy, pháp tánh như vậy chưa từng giải thoát”.
Luận rằng:
Dùng quán bất tịnh để đối trị tâm tham trước, tu từ bi quán đối trị tâm sân nhuế. Pháp nầy bình đẳng. Nếu chẳng quán sát chúng sanh, hoặc do ăn uống, mà sanh ái lạc. Đối với họ muốn tán thán niềm vui và tìm cầu việc ăn mặc, chẳng phải chẳng ái lạc. Lấy lòng từ độ tâm tham dục là nhân duyên chẳng nhiễm trước về ái, nghĩa nầy có ba loại. Kinh Vô Tận Ý chép rằng: “Bồ Tát sơ phát tâm tu chúng sanh duyên từ, Bồ Tát tập hạnh tu pháp duyên từ, còn Bồ Tát vô sanh Pháp Nhẫn tu vô duyên từ”.