1
2
3
4
5
6
7
8
9
10
11
12
13

Quyển 9

Phẩm Hộ Thân – Phẩm Thứ Sáu. Phần hai

Như thế kẻ đi khất thực, đối với việc bố thí khởi lên ba loại ý niệm. Nghĩa là thường cho thân nầy là chỗ tụ tập của vi trùng. Vì thành tựu lợi ích tất cả chúng sanh mà nhiếp thọ chánh pháp. Lại như đức Như Lai dạy về các việc làm, tất đều phải chánh niệm. Đầu tiên là nghe chơn ngôn; nghe rồi phải giữ gìn. Nên trước đó đọc chú Đề Lý Tam Muội Da (Trisamayaraja). Nói sự lợi ích của chú Mạn Noa La. Bây giờ nói chú rằng:

Na Ma Tác Lý Phược, Một Đà Nẫm, Đề Tác Đỏa Nam Ích Vỉ Lô Nặc, Vỉ Lô Nặc Ma Ha, Phược Nhĩ Lý, Tát Đa Bà, Lô Đệ Bà, Lô Đệ Đản Lô, Dĩ Đản Lô, DĨ Vĩ Đà Mạt Đế Tam Hộc , Nặc Nhĩ Đa Lô Mạt Đệ Tất Đà, Ngật Lý Đản Lam Tác Phược Hạ. (Namah Sarvabuddha Bodhysattvanam Om Viraji Viraji Mahacakraviraji Sata Sata Sarata Sarata Trapi Trapi Vidhamani Sabhajani Sambhajani Taramati Siddha Agre Tram Svaha).

Tụng chú nầy được nhập vào tất cả Mạn Đà La hoặc niệm Như Lai tâm chú tám ngàn biến, thì tất cả thế gian và xuất thế gian tối thượng Mạn Đà La cũng đều có thể nhập được, Lại nói chơn ngôn rằng:

Nam Mô Tất Đế Lý Giả Để Ly Ca Nam Đản Đà Nga Đa, Nam Tát Lý Phược, Đản Lô, Bát Lô Đệ Yết Đa, Phược Bát Đệ, Đạt Lý Ma Đa, Vị Lăng Na, A Tam Ma Tam Ma Tam Ma Tam Mãn Đa Đô, Nan Hằng Đa Phược Bát Đệ, Xá Tát Nhĩ Yết Lô Yết Lô Tam Ma, Lô Tam Ma, Lô Noa Vĩ Tri Đa Lô, Ngã Một Đà Đạt Lý Ma, Đệ Tát Lô Tát Lô Tát Ma Vị La, Yết Bà Yết Bà Đản Lô, Dã Hằng Lô, Dã Nga Nga Na Ma Ha, Phược Lô Các Xoa Ni Nhập Phược, La Nhập Phược, La Na Bà, Tri Lý Tát Phược Ha.

(Namastraiyabdhikanam Tathagatanam Savartrapratihatavaptidharmatapalinam Om Asamasama Samantato Nantanavaptisasani, Hara Smara Smarana Vigataragabuddhadharmate, Sara Sara Samabala, Hasa Hasa, Traya Traya Gagana Mahacalaraksana, Jvala Jvalana Sagare Svaha).

Đây nên biết tất cả thân Như Lai, thân tối tôn trọng. Chẳng có loại nào trên đây đối với kẻ sơ cơ cả. Đối với Phật, chúng sanh tu tập nhiều bao nhiêu Ma Vương cũng khởi lên những sự ác hại bấy nhiêu. Nên biết đây là việc tối thượng phải bảo hộ, nghĩa là hoặc cầm nơi tay; hoặc nơi than đốt, hoặc hạt cải; hoặc ở nước trong v.v…tùy ý thấy rồi mới làm việc kết răn.

Lại nữa, những kẻ tật bệnh dùng chơn ngôn để gia trì vào thưốc uống làm cho bệnh bình phục. Hoặc nơi rừng sâu lấy hoa Kiết Tô Ma để cúng dường tháp miếu trước hình tượng, kinh điển chánh pháp, an bài. Quán về nhân duyên giữa Phật và Bồ Tát; tâm được lợi ích an lạc đến tất cả chúng sanh. Đây là bệnh tật mà tất nhiên các Dược Xoa đều bảo trì, nên nói là giải thoát.

Lại nữa trước tiên nên niệm tu Phổ Hiền hạnh pháp (Bhadracarividhi. Cf. Bhadracaripranidhanaraja) theo thể thức như sau: Nghi thức nầy thực biến đổi. Nghĩa là dùng Đề Lý Tam Muội Da nầy, giả sử không bị ướt, lại được thanh tịnh; hoặc kẻ ăn cá thịt thảy đều chẳng mất mát , cho kẻ có ấn chú nầy. Tất cả chẳng thể được ăn; chẳng sai bổn nguyện vậy. Lại chẳng với kia đồng chỗ cùng ngồi; lại chẳng bị đuổi đi. Nơi tín giải hạnh học nầy chẳng có chỗ để khuynh đảo, lại chớ nghi hoặc. Nếu đầu tiên phá giới, thì điều nầy cũng thành tựu. Kẻ có trí người vô trí, quyết định tất cả đều thành. Lại nói như kia: Nếu Bồ Đề tâm kiên cố được ý chuyên chú; nên lìa sự nghi hoặc nầy. Cứu cánh sẽ được thành tựu.

Luận rằng:

Kẻ Bồ Đề Tâm kiên cố là người nhất định nói sự lợi ích của những chúng sanh khác. Làm cho tâm chẳng thoái chuyển với kẻ chưa nhập vào địa nào. Nói như thế là muốn được giữ gìn ánh sáng đầu tiên vào nơi tối tăm, vì đây mà chiếu soi vậy. Nếu lại muốn hy vọng kêu cầu được thành tựu, nên gọi thế nào là phước sâu? Vui về sự thành tựu ấy duy chỉ trừ tâm lười biếng. Sau đó vào Thánh Địa chứa nhóm vô lượng phước đức. Lìa con đường ác chẳng vì lún sâu vào chỗ đắm trước. Trước nói kẻ được mất; hoặc không có chơn ngôn niệm tụng. Chẳng biết chữ nghĩa thêm bớt, đây là điều chẳng mất. Giả sử có sự tăng giảm, sai biệt quên sót từng phần. Tất cả đều chẳng hề mất mát. Hà huống tin nơi Bồ Đề tâm xả bỏ tư lợi, tạo nên vô lượng sự chuyển đổi. Quyết định được thấy chư Phật và chư Bồ Tát, thảy được thành tựu. Hoặc Chấp Kim Cang chơn ngôn, tạo nên cho người hộ trì và chơn ngôn viết rằng:

“Na Ma Tát Đề Lý, Giả Thế Vĩ Ca, Nam Hằng Đà, Nga Đa, Nam Tát Lý Phược, Phược Nặc Lô, Đạt Lô Ba, Tán Nô Tán Nô Mặt La Mặt La Phược Nại Lô, Phược Nại Lô, Phiến Đa Na, Phiến Đa Na, Tầng La Tầng La Phược Lô Phược Lô Ma, Lô Noa Ma, Lô Noa Phược Nặc Lô, Nại La Tả Tát Phổ, Ngật La Kiên Đa Hộ Ha Lô Tam Mãn Đa Phược Nặc Lý, Ni Nhập Phược, La Nhập Phược, La Na Mạt Tốt Đổ, A Nguyên Lô, Nga Lô, Xá Tát Na, Nam Lô Noa Lô Noa Hổ La Tầng La Tát Phát, Ngỏa Phược Tô Rô, Đổ Di Tát Phược Ha”.

(Namastraiyabdhikanam Tathagatanam Sarvavajradharanam Candala Candala, Cala Cala, Vajra Vajra, Santana Santana, Phalana Phalana, Cara Cara, Marana Marana, Vajradalakata, Lalitasikhara Samantavajrini, Jvala Jvala, Namostu Te Agrograsasananam Rana Rana Ham Phula Sphata Vajrottame Svaha).

Tụng chú nầy trong khoảng tích-tắc với kẻ tạo tội chướng, Tần Na Tần Na Dạ Ca (Cinajaka = Quỷ Thần) liền đều tiêu tán. Chư Thiên Long tất cả đều ăn uống, y phục, chỗ nằm đều thành tâm cúng dường. Cho đến gia trì vào nước thanh tịnh, hoặc tùy ý thấy nghe mà làm việc hộ trì. Lại mọi chỗ tụng chú nầy thì bất động Tôn Minh Vương cũng có tâm chú chơn ngôn như sau:

“Nam mô Tam Mãn Đa , Phược Nặc Lô, Ba Đản Lô, Ngật A Mạc, Khư Tán Nô Ma Ha, Lô Sắc Noa, Tát Phổ Ngõa, Dả Ngưu Đản Lô Ngỏa Ha Ni, Án Mạt Băng Nại Nhĩ Đế Nhu, Ma Khương Nhĩ Tát Phược Ha”.

(Namah Samantavajranam Trata, Amogha Candamaharosana sphataya hum, phramaya phramaya hum, trata hum, mam, palam dade te jomalini svaha)

Như khi bắt đầu ăn, tụng chơn ngôn nầy đến mười bảy biến, sau đó mới ăn uống thì chư Phật Dược Vương và Bồ Tát chúng, tùy theo chỗ niệm mà làm tiêu trừ các chất độc. Chơn ngôn ấy rằng:

“Đản Mật Đa, Ý Khương Mật Đế Đệ Khương Mật Đế Ý Khương Đế Khương Mật Đế Nõa Nhĩ Nõa Phược Lê Duệ Đản Lý Kế, Đản Lý Yết Lô Ni Ma Ma Lý Nhĩ, Ma Lý Ma, Lô Ni Yết Tất Di, Lý Yết Tất Di, Lô Mục Ngật Đê, A Khứ Di A Khứ Na Khứ Di Y Khan Y Lê Duệ A Ha, Dĩ Duệ A Phan, Ý Duệ Vĩ Đệ Tất Vĩ, Đa Đôn Ni A Na Nõa Lô Sất Tát Phược Ha”.

(Tadjatha, ilimitte tilimitte, ilitilimitte, dumbe, duhse, duhsaliye, dumbaliye, takke tarkkarane, marmme, marmarane, kasmire, kasmiramukte, aghane, aghanaghane, ilimiliye, akahapye, apapye svete, svetatunde,ananurakase svaha).

Lại nữa nếu nghe thần chú nầy, trong bảy năm chẳng bị rắn độc làm hại đến thân. Giả sử có bị rắn cắn, đầu bị phá bảy phần như hoa Lan Hương. Nếu trì chú nầy cho đến rốt ráo chẳng bị rắn độc cắn và chẳng hại thân. Câu chơn ngôn nầy trước rắn chớ nên đọc. Vì sao vậy? Vì rắn sẽ bị chết. Chơn ngôn viết rằng:

“Đản Ninh Đà Y La Khước La, Tả Cô, Phược Cô, Cô Ni, Cô Ni, Đệ Nhĩ Cô Lô Nõa, Nhĩ Cô Lô Ni Đệ Bố, Nõa Bố, Ni Đệ Bổ Lỗ Noa. Bổ Lổ Ni Đệ Phổ, Sắc Lô Tư Phổ Sắc Đinh, Noa Lô Tư Na San Lô Tư Na, San Sắc Đính Noa, Ban Tư Tát Lý Ba, Ban Tư Tát Lý Ba, Sắc Đính Noa, Ban Tư Yết Thiết Tra Khương Vĩ Thỉ Thức, Đệ Thức, Đa Phược Đa Khang Yết La Lý Yết La Lý Đàn Ni Đàn Ni Đản Nê Đản Nê Đa, Ni Đa, Ni Đa Ni Mặt La Mặt La Tát, Phổ Sắt Tát Phổ, Sắt Phát Sắt Phát, Sắt Tát Phược Ha, Y Đề Tư Mô Xoa Vô Cữu, Ngô Khan, Vĩ Ninh, Diệm La Tốt Đa, Điểu Nại, Yết Lý Da Diệm, Tát Lý Phược, Phổ Đa Ta Ma San Nhĩ Tát Lý Kiềm, Đản Đa, A Na Tha Đa, Phổ Đảm Tát Phu A Vĩ Bát Lê,Đảm A Vĩ Bát Lý Giả, Tát Đảm, Y Nại Vĩ Sa Ma Vĩ Sam Bà Phược Đổ Lại Na, Lãm Sáng Lê Đổ Năng Kiền Sắt Lô, Lãm Sáng Lưu Đổ A Ngật Nhĩ, Sáng Tan Đổ Nặc Lam Sáng Tan Đổ Tát Đảm Phùng Sáng, Tan Đổ Cô Sắt Giả Sáng Tan Đổ Phổ Minh Sáng Tan đổ Phiến Cam Sáng tan Đổ Tát Phược Ha”.

(Tadyatha, illa, cilla, cakko, bakko, koda kodoti, nikuruda nikurudeti, poda podeti moda, modeti, puruda purudeti, phatarahe phutatanda rahe, naga rahe, nagatatanda rahe, sarpa rahe, sarpatatandarahe , chala visasate, sitacattale, halale, halale tandi tandi, tada tada, tadi tadi, mala mala, sphuta sphuta, phutu phutu, svaha.

Iti hi phiksavo jangulyam vidyayam udahrtayam sarvabhutasamagate sarvam tathavitathananyathabhutam satyamaviparitamaviparyastam, idam visamavisam bhavatu, dataram, gacchatu, damstraram gacchatu, agnim gacchatu jalam gacchatu, sthalam gacchatu, stambham gacchatu, kudyam gacchatu, bhumim samkramatu, santim gacchatu svaha).

Lại nữa nếu vì giặc giã (trộm cướp) xâm hại. Nên tụng Ma lợi Chi (Ma ri ci). Chơn ngôn viết rằng:

Đản Ninh Đà, A Lý Ca, Ma Đài Ma Lý Ca, Ma Đài Lược Phược Na, Ma Đài Án Ma Lý Đà, Na Ma Đài Bát Thể Chĩ La Dọa Ô Đản Ba, Thể Chĩ Lô Xoa La Nặc Đô, Chỉ Lô Dạ Lô, Nặc Đô, Chỉ Lăng, Dọa Tô, Lô Đô, Chỉ Dinh Dọa Tinh Ha Đô, Chi Dinh Dọa Dương, Yết Lô Đô, Chi Dinh Dọa Na Sáng Đô, , Chi Dinh Dọa Tác Lý Ba Đô, Chỉ Dinh Dọa Tác Lý Phược Đô, Chi Dinh Dọa Dinh Dọa Mưu, Tác Lý Phược, Bà Duệ Tỳ Dược, Tác Lý Vũ, Ba Nại Lô Mỗi, Ba Tát Lý Ngộ, Phán Dã, Tế Tỳ Dược, Tát Phược Ha. Án Phược Đệ Khương Phược Đệ Khương Tát Lý Phược, Nạp Sắc Ngõa, Nam Ngật Lãm , Đỉnh Mãn Đà, Chỉ Tát Phược Ha, Nam Mô Lô Đẳng Na, Dạ, Dã Na Ma, Ma Lý, Tải Chỉ Phược Đa, Dị Ma Lý Sai Chỉ Phược Đa, Dã Ngật Lý, Nại Đạm Ma, Phược Lý Đa, Duệ Xoa Nhị Đản Ninh Đà Phược Đa Khương, Phược Nại, Khương Phược Lô, Khương Phược Lô, Ha Mục Khế Tát Lý Phược, Nạp Sắc Ngõa. Nam Mãn Đà Mục Lu Tát Phược Ha”.

(Tadyatha, parakramasi, udayamasi, vairamasi, arkamasi, markamasi, vanamasi, antarddhanamasi, pathe me raksa, utpathe me raksa janato me raksa, cairato me raksa, rajato me raksa, simhato me rakasa vyaghrato me raksa, nagato m e raksa, sarpato me raksa, sarvato me raksa, raksa raksa, mam sarvasattvamsca sarvaphayebhyah, sarvopaye sopasargebhvah svaha. Um vaeili umvadili sarvadustanam granthim vandami svaha.

Namo ratnatrayaya, namo maricyai devatayai, maricya detaya detaya hrdayamavartayisyami. Tadyatha battali, badali, badali, barali, vara hamukhi, sarvadustanam nivaraya, bandha mukham svaha).

Do niệm Minh chú nầy, xuất sanh vô lượng đại đức oai quang. Lại nữa năm mươi bảy chữ sau đây thuộc về trong mật Tạng Bảo Trì chơn ngôn (Vidyadharapitaka), nhằm bảo hộ và lợi lạc khỏi sự sợ hãi. Chơn ngôn viết rằng:

“Đản Ninh Đa, Yết Đệ, Mạt Đệ, Na Đệ, Cô Na Đệ, Sấc Chỉ Đà, Lộ Chỉ Đà, Lô Chỉ Ô Rô Mạc, Đệ Rô Rô, Mạc Đệ Đổ Rô , Tư Khan Chỉ, Khan Tát Lý Phược, Nhi Giả, Nổ Ba Nại Nga Na Nẫm, Tát Lý Phược, Tam Ma Tam Một Đà, Diện Tất Điện Đô Di Mãn Đản Lô, Bát Nại, Tát Phược Ha”.

(Tad yatha atte batte natte ku natte take thake tharake uru mati ruru mati tu ru hi li mi li sarvajno dupadagga na mo sabba samma sam buddhanam me manta padad svaha).

Luận rằng:

Sự hộ thân như thuốc thang, y phục để làm lợi ích chúng sanh. Trước đã làm như thế, nghĩa là ở nơi vui say đắm trước thọ dụng; khởi lên tội nhiễm ô. Do đây mà Bồ Tát đối với tất cả chúng sanh đều xả bỏ. Lại nữa nếu chẳng mong vật thí, thì đồ riêng tư của mình lúc bấy giờ chẳng nên vui đắm; tức chỉ có việc ăn uống mà đã khởi lên sự nhiễm ô. Chỉ có chẳng nhớ nghĩ đến sự ăn uống, đối với chúng sanh, hay chẳng ưa thích. Nghĩa là nơi sự ăn uống đó làm cho người ta nhớ đến vật nọ, không bị tội nhiễm ô. Tuy nhiên nếu lợi riêng mình là đầy cả tội. Nơi giới biệt giải thoát thuộc Ba La Di tội. Lại nữa, nói về sự thọ dụng ở nơi kia lấy mỗi một chúng sanh làm đích. Mỗi một chúng sanh làm chuẩn là hộ thân khiến cho chẳng bị nguy hại mất mát. Chẳng phải như kẻ tôi tớ thường hay đối với một ông chủ để kiếm tiền sanh sống, bị sai sử. Vật riêng của mình, tức là vật của người.

Như Kinh Phát Tập chép rằng:”Bồ Tát cũng giống như thay thế cho đứa trẻ ở mướn. Vì tất cả chúng sanh tùy theo đó mà làm việc”.

Luận rằng:

Chẳng luận nơi một người chủ, mà kia vì lợi tha. Giả sử nếu người đầy tớ trai bị bệnh não mà ông chủ chưa mở lời trước tiên, hoặc cho ăn như thế có được chăng? – Bồ Tát như thế làm các việc gần gũi chẳng biết việc này. Nếu tâm biết rõ việc thanh tịnh như thế, nên rộng bỏ việc làm kia, ở lý chớ nên nghi hoặc. Tất cả đều nên xả bỏ hết. Như trước Phật đã nói chỉ dùng đó để cấp cứu bảo hộ mà thôi. Đây là việc hộ thân; vì lợi ích chúng sanh, nên nói như vậy, phải hiểu rõ nghĩa nầy. Như chân lý đã mở bày, khi xử dụng đừng quên lời.

Hộ Thọ Dụng Phước – (Bhogapunyaraksa Sap Tamah Paricchedah) – Phẩm thứ Bảy

Luận rằng:

Như thế sự hộ thân nên biết như đã giải thích. Hộ trì kẻ thọ dụng: thứ đến bây giờ sẽ nói thọ dụng phước, lại phát khởi việc thiện để tu hành. Ở đây, dùng trí để quán sát những học xứ, để hộ trì kẻ thọ dụng, thật chẳng lấy làm khó.

Kinh Tối Thượng Thọ Sở Vấn chép:”Kẻ nơi học xứ nầy là nơi bình đẳng, thấy việc thiện mà làm. Kẻ tu làm việc thiện, xa quán thật rõ sự thí xả của việc thọ dụng kia”.

Luận rằng:

Sa Ma Tha (Chỉ) dễ về sau, mà ở lý giải hiểu rõ là chỗ nói được về sự thành tựu nầy. Cho nên tiết chế sự thọ dụng , mà đây là sự thành tựu chân thật. Tự nhiên việc thọ dụng rộng khắp. Sự tổn hoại có thể dứt bỏ không cần đề cập.

Lại nữa Kinh Tối Thượng Thọ Sở Vấn chép: “Vợ con nô bộc, kẻ làm việc nhà, là những người được thọ dụng chánh đáng. Hoặc chính mình hoặc người khác khi nghe phần giác ngộ thì dứt trừ chỗ làm. Nên xả bỏ hay chẳng xả bỏ sự việc kia. Nơi lợi ích chúng sanh thật có thể xưng tán vô lượng, và nơi Bồ Tát xưng tán vô lượng là việc làm tối thiện. Đoạn trừ chỗ làm nầy, có thể xả hay chẳng thể xả, việc làm vẫn thành tựu. Ở đây có điều nghi, Bồ Tát biệt giải thoát lại cũng làm và nói thế.

Lại nữa Xá Lợi Tử! Nếu xuất gia Bồ Tát cầu Bồ Đề phần nên biết nói về sự bố thí. Thế nào là thí? – Nghĩa là sắc thí cho đến pháp thí. Vì cái khác là pháp thí.

Xá Lợi Tử! Nếu tại gia Bồ Tát ở nơi hằng hà sa số cõi Phật dùng đầy đủ bảy món báu để bố thí cho Như Lai, Ứng Cúng, Chánh Đẳng Chánh Giác. Xá Lợi Tử! Nếu xuất gia Bồ tát nơi một cho đến bốn câu kệ, như thế mà tu hành . Cho đến vì kẻ khác mà diễn nói, thì phước nầy hơn kia. Lại nữa Xá Lợi Tử! Há chư Như Lai với kẻ xuất gia nói về vô tài thí, là điều quan yếu ư. Nầy Xá Lợi Tử! Nếu có thức ăn đầy trong bình bát cùng những vật dư thừa nên đem chia cho kẻ đồng phạm hạnh. Nếu kia lại đến cầu xin y hoặc bát mà như Phật đã nói có ba loại y tùy theo đó mà cho. Lại nữa nếu thiếu một trong ba y cho đến duy chỉ một y hay chỗ ở của người phạm hạnh thanh tịnh, thì điều nầy chẳng nên xả. Vì sao thế? Cuối cùng Như Lai chẳng nói bố thí ba y nầy vậy. Xá Lợi Tử! Bồ Tát vớí ba y lúc người xin mà cho kia mặc nhiên đối với Thầy Tổ không thiếu sự gần gũi. Nầy Xá Lợi Tử! Xuất gia Bồ Tát duy chỉ nên vì Pháp mà thân cận vậy. Kẻ cầu mong, nên biết mà nhiếp thọ. Chỉ một chúng sanh chưa được, không lợi ích bằng nhiều chúng sanh nhóm họp lại. Cho nên Bồ Tát trong chúng sanh dùng thâm tâm để tu tập. Nếu giảm mất sự lợi lớn thì đoạn diệt việc tốt nầy. Như thế nên nói bị sát na xa lìa việc lợi lớn là vậy, cho đến thí xả hoặc chẳng thí xả”.

Lại như Kinh Hải Ý nói: “Kẻ Đại Thừa đoạn nhiều tài lợi như ta định nói: Bồ Tát như thế thành tựu biện tài. Do đó mà hội nhập vào,” giống như Kinh Tối Thượng Thọ Sở Vấn đã chép.

Luận rằng:

Nếu nói vì kẻ khác mà tu hành tạo tác nên xả bỏ việc nầy như Kinh Duy Ma Cật chép rằng:

Hỏi:

-Duy Ma Cật! nếu sợ sinh tử thì nương vào chỗ nào?

Đáp rằng:

-Văn Thù Sư Lợi! Bồ Tát sợ sinh tử nên nương vào công đức lực của Như Lai.

Hỏi:

-Kẻ mang vào công đức lực của Như Lai sẽ trụ ở đâu?

Đáp:

-Muốn nương vào công đức lực của Như Lai nên nương vào tất cả chúng sanh để trụ.

Lại hỏi rằng:

-Nếu nương vào tất cả chúng sanh để trụ lại trụ vào chỗ nào?

Đáp:

-Nên trụ vào chỗ giải thoát tất cả chúng sanh vậy.”

Lại như Kinh Pháp Tập chép:

“Thương Chủ Bồ Tát bạch rằng: Bạch Đức Thế Tôn: Nếu Bồ Tát vui say nơi Bồ Đề điều đầu tiên với tất cả chúng sanh chẳng vì mình cho đến Thế Tôn, thì đây gọi là Pháp Tập”

Luận rằng:

“Bỏ cái nầy tức thành tự lợi

Hỏi:

-Sự giảm mất lợi ích chúng sanh là thế nào?

-Nghĩa là làm mất sự sợ hãi chẳng làm cho chúng sanh có nhiệm vụ nặng hơn. Do sự giảm mất nầy mà chẳng quan sát thấy được lợi ích. Chỉ ở thế gian tu hành làm tự lợi.

-Như vậy thì sự sai biệt như thế nào?

-Nếu Bồ Tát chẳng bỏ cái đức riêng để thành cái thiện chung ; hoặc sợ vào đường ác thọ chịu khổ não, đây là hai loại, nghĩa là khổ mà ta sẽ thọ , nên chẳng xả lìa”.

Như Kinh nói: Bao tội báo sâu rộng”.

Kinh Bảo Tích Phật nói:

“Nầy Ca Diếp! Có bốn loại pháp, có tên tương tợ với Bồ Tát. Nghĩa là tự lợi cầu an mà chẳng tế độ khổ não cho chúng sanh”.

Lại nữa Kinh TốiThượng Thọ Sở Vấn lần lượt nói về tội báo chép rằng:”Nếu hỏi về vô ngã chấp, tức là Bồ Tát học xứ”.

Lại như Kinh Pháp Tập chép:”Giống như Huệ Mạng Tu Bồ Đề nói chẳng chỗ để phát ra lời nói của Bồ Tát”.

-Nầy Thiện nam tử! Bồ Tát sẽ trụ vào đâu?

Đáp:

-Vì chúng sanh chẳng bỏ chánh hạnh.

Hỏi:

-Thế nào là vì chúng sanh chẳng lìa chánh hạnh?

Đáp:

-Nghĩa là chẳng bỏ đại từ đại bi.

Tu Bồ Đề nói:

-Thế nào là Bồ Tát đại từ?

Đáp:

-Đem cả thân mệnh và phước báo căn bản bố thí cho tất cả chúng sanh; nhưng chẳng cầu đền đáp.

Lại hỏi:

-Thế nào là Bồ Tát đại bi?

Đáp:

-Nếu Bồ Tát vui nơi Bồ Đề ; tối sơ là với tất cả chúng sanh mà chẳng chấp lấy sự chứng cho riêng mình”.

Kinh cũng lại chép: “Điều nầy tất cả Bồ Tát học xứ lấy đại bi làm căn bản. Cuối cùng Thế Tôn muốn chư Bồ Tát chẳng rời sự lợi tha được gọi là Bồ Tát với thiền định, phi cứu cánh, trong đó, ta quán sự bố thí như biển phước rộng lớn là sự lợi ích rộng lớn. Chẳng phải nhất định một hướng sai biệt của sự sanh diệt”.

Lại như Kinh Quyết Định Tịch Tĩnh Thần Biến chép:”Xưa kia có vị vua thấy có một vị Tỳ Kheo đã ngàn năm Nhập Diệt Tận Định. Đây là duyên vậy. Có những Tỳ Kheo đọc tụng Kinh điển cầu hạnh Bồ Tát; tôn trọng Pháp, muốn thọ dụng đồ ăn của tín thí. Phát tâm như thế nầy: Ta vì cầu pháp mà căn lành nầy vì pháp xả thí. Một trăm đồng tiền lẻ mà vui chấp, như trước đã lần lượt nói điều ấy không mất đi. Hoặc nói cho đầy đủ là giúp đỡ kẻ thọ dụng phước báu”.

Luận rằng:

Lại nữa rộng vì tự lợi quả báo giữ gìn thanh tịnh. Như Kinh Na La Diên Sở Vấn chép:”Kẻ giữ giới chẳng luận Quốc Vương; chẳng luận chư Thiên; chẳng luận Lạc Ca La; chẳng luận kẻ thọ dụng; chẳng luận kẻ vui giàu; chẳng luận về hình sắc, chẳng luận về nguyên nhân của hiển sắc, chẳng luận về lời nói đẹp. Cho đến kẻ giữ gìn giới không sợ hãi địa ngục. Như thế chẳng sợ hãi súc sanh và cảnh giới A Tu La; Điều quan trọng với kẻ giữ giới là: Tuy không do nơi Phật nhãn, cho đến kẻ giữ gìn giới đức; làm lợi lạc tất cả chúng sanh, là nghĩa tương ưng vậy. Bồ Tát giới uẩn có hành tướng như thế; được đầy đủ mười pháp chẳng giảm mất. Thế nào là mười?

Nghĩa là được Chuyển Luân Thánh Vương mà chẳng giảm mất – Cầu Phật Bồ Đề mà chẳng tạp loạn được Thước Ca La (Cakravada = bền chắc) chẳng giảm mất – Nguyện thấy chư Phật được vô chướng ngại – Như thế vì Phạm Thiên Vương lại chẳng giảm mất – Nghe pháp Thanh Văn chẳng vào chỗ đọa, cho đến nghe đọc tụng kinh pháp, đầy đủ các hạnh Bồ Tát đều chẳng mất – Nơi các thiện pháp chẳng đoạn mất sự biện tài; cầu vào sâu thiền định chẳng mất – Cho đến như thế trụ nơi giới uẩn đại Bồ Tát, thường vì tất cả chúng sanh mà kính lễ, nghĩa là Trời Rồng, Dạ Xoa, Càn Thát Bà v.v…cúng dường cung kính , ca tụng xưng tán. – Lại vì các Long Vương , A Tu La v.v…mà thường tôn trọng. Mỗi mỗi Bà La Môn, Trưởng Giả, Cư Sĩ v.v.. đều thân cận. Cho đến kẻ trí thường hay tán thưởng khát ngưỡng. Vì Phật hỏi han; hoặc trời hoặc người; tất cả chúng sanh đều lân mẫn. Cho đến chẳng làm bốn hạnh, duy trừ việc hóa độ chúng sanh. Thế nào là bốn? Đó là chẳng hành vô tướng hạnh; lại chẳng hành nơi không có nước Phật; lại chẳng hành sanh ra nhà tà kiến, cùng đọa vào con đường ác.

Luận rằng:

Như trước đã xả phiền não lực kia và sự kiêu mạn . Giữ gìn phước báo, lại hay bố thí. Rồi nơi phước nầy tự chẳng cầu quả báo. Muốn giữ gìn, duy chỉ vì việc lợi tha. Sao chẳng sanh sự hối cải. Như Kinh Tối Thượng Thọ Sở Vấn chép: “ Nếu đã bố thí tâm nầy, giả sử chẳng sanh hối quá mà đuổi theo kẻ ác kia; lo hoặc chẳng lo đều có tên là hối tiếc việc đã qua. Sự giảm mất phước báu làm cho tội càng tăng trưởng. Nếu chẳng đối trước Phật phát lồ sám hối tội che dấu, thì việc thiện kia thuộc về tánh tội. Lại nữa đối với tội đó não hại việc làm hối quá. Do đây mà vô tội được phước hỷ rộng rãi”.

Kẻ làm lợi ích chúng sanh chẳng phải là tâm tài lợi mà là tâm phát lồ (sám hối).

Như Kinh Bảo Vân chép: “Giống như Dược Vương tự tán thán cái đức ấy, chẳng làm sai trái. Lại nói muốn bảo hộ kẻ phước đức, khi nghe đến việc lợi dưỡng Bồ Tát thường xa rời sự cao mạn đó mà vì pháp thanh tịnh nên xả bỏ sự ngu si mê ám”.

Quyển 10

Phẩm Hộ – Thọ Dụng Phước (Bhogapunyarksa Sap Tamah Paricchedah) – Phẩm thứ bảy – Phần thứ hai.

Kinh Bảo Tích chép rằng: “Phật bảo nầy Ca Diếp! Nếu Bồ Tát đầy đủ bốn pháp như thế, tức chưa sanh thiện pháp làm cho diệt. Thiện pháp sanh rồi lại chẳng tăng trưởng. Thế nào là bốn? – nghĩa là đối với thế gian tham đắm, quá mạn; nói lời xảo trá, đắm trước lợi dưỡng; Thuộc mầm mống lạc quan ít tán dương Bồ Tát. Đối với việc chưa nói chưa nghe của khế kinh mà đã sanh hủy báng”.

Lại nữa Thuyết Nhất Thiết Hữu Bộ (Sarvastivadin) chép rằng: “Như thế, tóc, lông, móng tay, tháp cho đến những phần của thân thể , thấy rồi sinh lòng tin thanh tịnh phát tâm cung kính, Đại Đức Tỳ Kheo , Tỳ Kheo Ni nầy, từ mặt đất, đi quá tám vạn bốn ngàn Do tuần đến Kim Luân Tế tầng, Tỳ Kheo có gặp được trăm ngàn lần Chuyển Luân Thánh Vương thọ dụng phước báu. Cho đến vị Ưu Ba Ly hướng đến trước Như Lai chấp tay cung kính mà bạch Phật rằng: Bạch Thế Tôn! Nếu Phật nói Tỳ Kheo nầy có căn lành như thế rất lớn. Bạch Thế Tôn! Vì sao lại có căn lành mà Ngài đã nói điều nầy thường có thể tan hoại?

Phật bảo: Nầy Ưu Ba Ly! Nghĩa là nhẫn với sự động loạn nầy mà tùy theo kia thấy, như kẻ phạm hạnh gần gũi phạm hạnh. Nầy Ưu Ba Ly! Do đối với thiện căn chẳng rộng rãi nên ngươi đối với việc nầy thường có thể bị hoại diệt. Nầy Ưu Ba Ly! Cho nên phải học. Lại nữa nếu tích chứa cỏ rác nơi chỗ đốt, tâm có thể không hoại; huống là thân thức kia”.

Kinh Văn Thù Thần Biến (Manjusri-Vikridita-Sutra) chép rằng:” Đối với kẻ hại kia, trong trăm kiếp tích tu điều thiện nầy; có giảm thấp gọi là đối hại”.

Kinh Hoa Nghiêm chép:”Khổ cứu chúng sanh là cái đức cao cả làm nhân duyên cho thần ban đêm như trước đã nói”

Luận rằng:

Ngay lúc đó cùng nhau hủy báng; tăng sự bất thiện căn bản, giảm thọ số lượng vô cùng, sắc lực an ổn tất cả đều giảm thiểu. Chẳng còn một phần ít nào cho thấy sự lợi ích cả. Tuy nói truy cầu danh tướng lợi dưỡng để làm việc cao ngạo.

Như Kinh Bảo Tích chép: “Phật bảo: Nầy Thiện nam tử! Bồ Tát được của quý dồn lại như núi Tu Di rồi lấy đem cho người ta; hoặc được tiền bạc, lại lấy cho kia. Vì sao vậy – Vì họ suy nghĩ như thế nầy, do chúng sanh tham lam tật đố hay tranh dành vật chất giữa mình và người . Do nhân duyên đó nên bị chìm đắm trong biển sanh tử. Ta muốn giúp cho người trong đêm dài đó được lợi ích an lạc, cho nên thọ của thí mà cuối cùng chẳng cho rằng việc ấy gọi là có. Lại cũng chẳng khởi tâm tham trước, duy chỉ vì sự cúng dường Phật, Pháp, Tăng, sau đem bố thí tiếp cho tất cả chúng sanh, như kẻ bần khổ được đời sống linh hoạt. Lại làm cho kẻ thí sanh nhiều hoan hỷ, giống như nói, được của thí không kiêu mạn . Người ấy lại cũng nói: Giả sử có người đến bố thí nhân duyên, ca tụng xưng tán; người nầy chẳng sanh cao hứng; cũng chẳng kiêu mạn. Lại nữa nếu đối với ta, mà ca tụng xưng tán khởi lên tức là diệt mất tức thì không còn dài lâu. Giả sử tái diễn ba lần ở nhiều nơi khác ca tụng xưng tán , thì phải nên hiểu như thế nào? Nghĩa là các pháp vô thường , vô trụ, vô lực, khiến cho tâm thấp hèn kia chớ sanh cống cao; chớ có kiêu mạn. Như thế Bồ Tát đối với danh thơm , lợi dưỡng , ca tụng, xưng tán v.v.. tất cả đều trụ nơi chánh niệm”.

Kinh cũng chép:”Giống như người Chiên Đà La du hành trong thế gian, có ý hạ tiện được lìa kiêu mạn. Tùy theo chỗ ở rồi sanh ra nhớ nghĩ việc đi xin ăn”.

Lại như Kinh chép: “Nầy Thiện nam tử! Một là Bồ Tát nếu xả tục xuất gia,, vì các thân quyến, bạn hữu ở chỗ xả bỏ. Cũng giống như tử thi, mà với nhân duyên nầy thôi thúc điều phục sự ngã mạn. Hai là hủy hoại hình hài, mặc y hoại sắc, thân hình khác tục. Đây là nhân duyên để thôi thúc điều phục sự ngã mạn. Ba là cạo tóc, tay mang bình bát. Ở chỗ người thân hoặc chẳng thân du hành khất thực. Đây là nhân duyên thôi thúc điều phục sự ngã mạn. Bốn là như người Chiên Đà La ti tiện dụng tâm đi du hành khất thực. Đây là nhân duyên thôi thúc điều phục sự ngã mạn. Năm là do khất thực mà được toại ý được sanh thành vì kia mà trói buộc. Đây là nguyên nhân thôi thúc điều phục sự ngã mạn. Sáu là tuy vì kia hủy báng, vì sự khất thực mà lại thọ của thí kia. Đây là nhân duyên thôi thúc điều phục sự ngã mạn. Bảy là tôn trọng cống hiến A Xà Lê, mà đây là nhân duyên thôi thúc sự ngã mạn. Tám là đi đứng uy nghi , an tường bình tĩnh;làm cho kẻ phạm hạnh thấy rồi hoan hỷ. Đây là nhân duyên điều phục thôi thúc sự ngã mạn. Chín là nơi Phật, người chưa được nguyện sẽ được. Đây là nhân duyên thôi thúc điều phục sự ngã mạn. Mười là khởi tâm sân hận loài hữu tình; lại có nhiều việc nhẫn nhục. Đây là nhân duyên thôi thúc điều phục sự ngã mạn”.

Lại nữa Kinh Hải Ý chép rằng: “Nếu Bồ Tát được thân thanh tịnh; đầy đủ trang nghiêm tay chân mềm mại; thù diệu, khả ái thành thục phước ái sanh ra nơi thân. Các căn không giảm; thân hình tròn đầy; mà đối với hình tướng đẹp đẽ đó lại chẳng làm say mê người. Chẳng phải vì thân trang nghiêm mà mong niềm vui nơi xúc chạm. Nếu chúng sanh có mỗi mỗi sắc tướng khác nhau mà Bồ Tát lúc ấy vì cầu pháp, nên khiêm hạ cung kính”.

Kinh lại chép rằng:”Giống như ở biển cả dưới đất sâu; nơi mà tất cả sông ngòi và những khe rạch đều chảy vào. Bạch Thế Tôn! Bồ Tát kính trọng Thầy Tổ tâm chẳng cao ngạo cũng lại như thế. Tất cả pháp môn sâu xa và những việc lành vi tế ở nơi nhĩ căn nầy mà mau được thâm nhập . Bạch Thế Tôn, Bồ Tát nên an trụ nơi chánh niệm như thế. Nếu cống cao ngã mạn chẳng tôn trọng sư trưởng; lại chẳng lễ bái cung kính, thì phải biết Bồ Tát đây bị ma dắt dẫn chế ngự”.

Lại nữa như Phẩm Xuất Thế Gian (Lokottaratarivarta) chép: “Hoặc bảo nầy Phật Tử! có mười loại ma sự. Thế nào là mười?

Một là đối với Hòa Thượng, A Xà Lê, Cha Mẹ, Sa-môn, Bà La Môn ở nơi chánh hạnh hướng về chánh đạo mà chẳng khởi niệm tôn trọng, đây là ma sự.

Hai là đối với Pháp Sư thuyết pháp thù thắng , với pháp Đại Thừa thậm thâm, sự liễu đạt con đường Niết Bàn, với khế kinh tổng trì vương, với sự tịch tĩnh; chẳng khởi niệm tôn trọng, chẳng chịu khéo nghe, đây là ma sự.

Thứ ba đối với chúng hội nghe thuyết pháp , đối với Pháp Sư chẳng hoan hỷ tán thán lời hay đẹp; huống nữa khởi lòng tin tưởng thanh tịnh, đây là ma sự.

Bốn là khởi lên sự ngã mạn, cố chấp nơi mình, lăng nhục người khác; Sự hiểu biết với tâm hẹp hòi, ngắn cụt, không chỗ tham khảo, đây là ma sự.

Năm là khởi tâm ngã mạn, tự mình chẳng chịu nghe lời A La Hán và Bổ Đặc Già La (chúng sanh), nhằm che đậy cái đức cao quý của họ và cho rằng chẳng như mình; Việc đáng xưng tán chẳng xưng tán, đây là ma sự.

Sáu là dù rõ biết đây là pháp, đây là luật, đây đúng là lời Phật dạy, pháp nầy vì người khiêm nhường mà diễn nói pháp khiêm nhường, nhưng lại hủy báng chánh pháp, lại thọ trì riêng, đây là ma sự.

Bảy là tự cầu chỗ ngồi cao, nghĩa là cho rằng hành đạo chẳng nên gần gũi kẻ chấp sự. Mà người kia tu phạm hạnh lâu, là bậc đại đức kỳ cựu, lại chẳng khởi sự thừa nhận cung nghinh, đây là ma sự.

Tám là dung mạo chẳng ổn thỏa có nhiều tật xấu. Lời nói cực thô với tâm ti tiện quá ác, đây là ma sự.

Chín là tăng thượng mạn ưa nghe điều hí luận, chẳng gần bậc có đức, chẳng sanh cung kính. Lại chẳng thưa hỏi ai là người lành, ai là kẻ chẳng lành. Ai là kẻ nên làm. Ai là kẻ chẳng đáng làm. Lại nữa chỗ nào làm nơi đêm tối mà được an lạc lợi ích. Lại nữa chỗ nào làm trong đêm tối mà chẳng được an lạc lợi ích. Suy ám cùng kiêu mạn giữ chỗ bất minh mà cho là đúng. Đây là ma sự.

Mười là do ngã mạn che khuất, giả sử có Phật ra đời lại cũng xa lìa. Đánh mất thiện căn chẳng khởi niệm tốt. Nói điều chẳng đáng nói, lại hay khởi lên sự đấu tranh, nghĩa là pháp hành nầy phản lại, rơi vào chỗ tà ác. Đối với Bồ Đề Tâm, căn lực thánh tài chẳng thể được. Trong trăm ngàn kiếp thường chẳng gặp Phật. Huống lại nghe pháp. Đây là mười loại ma sự. Phật bảo: Nầy Phật Tử! Bồ Tát xả bỏ mười loại ma sự nầy được mười loại sự nghiệp trí tuệ”.

Luận rằng:

Ở đây sự nghiệp của trí tuệ là nói việc hóa độ tất cả chúng sanh.

Kinh Hộ Quốc chép rằng:”Người kia đọa vào tội kéo xe ở nơi biên địa, sanh ở nơi bần cùng. Đui mù câm điếc, chẳng có uy đức, gần gũi người ngu, chấp trước ngã mạn”.

Lại như Kinh Phát Tập chép: “Nghĩa là các Bồ Tát muốn giữ lấy Phật địa; tức lấy chúng sanh làm Phật địa. Do đây mà được Phật pháp. Chẳng hoại chánh hạnh. Nghĩa là những thiện hạnh và ác hạnh chẳng nương vào nơi chúng sanh mà chuyển hóa. Do vậy kẻ ác hạnh nương vào tội ác mà khởi lên. Còn kẻ thiện hạnh thì nương vào loài người và chư Thiên”.

Kinh Bảo Quang Minh Đà La Ni (Ratnolkadharane) chép rằng: ”Phật bảo: Nầy Phật Tử! Bồ Tát sơ phát tâm trước tiên đối với tất cả chúng sanh mà phát ra mười loại tâm. Thế nào là mười? Đó là tâm lợi ích, tâm an lạc, tâm lân mẫn, tâm nhuần trạch, tâm ái lạc, tâm nhiếp thủ, tâm thủ hộ, tâm bình đẳng, tâm giáo hoá, tâm xưng tán. Đó là mười loại phát tâm để vào năng lực tin và hiểu”.

Kinh Tài Ấn chép: “Ta đã được tất cả chúng sanh làm đệ tử; lại làm cho họ đối với tất cả chúng sanh độ làm đệ tử nữa, để được an ổn. Điều quan trọng là trước tiên ta ở nơi đó cung kính lễ bái; rồi giáo hóa cho tất cả chúng sanh cũng ở nơi đó cung kính lễ bái.

Lại như Kinh Duy Ma Cật Sở Thuyết chép rằng: “Nếu vui nói thế gian thanh tịnh chẳng có khó khăn, tùy theo nơi giáo hóa điều phục tất cả loài hữu tình sanh về thế giới thanh tịnh của chư Phật”.

Luận rằng:

Nếu rửa chân ngồi nơi chỗ ngồi suy nghĩ; nên làm việc ái lạc tôn trọng ra sao.

Cho nên Kinh Hoa Nghiêm chép:”Lúc bấy giờ có một vị Vua tên là Pháp Âm Cái. Ở trước đại chúng ngồi trên tòa Sư Tử; có nhiều người lúc ấy đứng chắp tay ở phía trước rồi cung kính tác lễ vị Vua.

Lúc ấy vua Pháp Âm Cái, thấy các vị đến xin ăn, sanh tâm hoan hỷ rất là bi mẫn. Giả sử trong ba ngàn thế giới đều làm Chuyển Luân Vương trải qua vô số kiếp; lại được niềm vui thắng diệu hơn trước đã nói. Cho đến Tịnh Cư Thiên Vương nơi vô số kiếp, hành pháp môn tịch tĩnh giải thoát; lại nhiều hơn trước đã nói.

Nầy Thiện nam tử! Nếu có người tuy thực hành lòng yêu thương muốn cho cha mẹ huynh đệ tỷ muội bằng hữu, nam nữ vợ con, thì nên xa rời lâu dài. Sau đó ở nơi hoang dã tu tỉnh tự nhiên trực ngộ. Rồi tự hỏi việc sanh yêu thương , quán sát chiêm nghiệm chẳng có che giấu.

Nầy Thiện nam tử! Vua Pháp Âm Cái nầy lại cũng như thế. Khi thấy ai đến xin, thì thật vui vẻ. Tâm sanh hỷ lạc, phát khởi tối thượng tâm hy hữu. Cho đến nơi những vị đi xin ấy tưởng như con; tưởng như cha mẹ; tưởng là chỗ sanh ra phước điền; tưởng là thiện tri thức; tưởng là lực kiên cố; tưởng là thật khó được; tưởng là việc khó làm có thể làm; tưởng là chỗ làm nhiều; tưởng là chỗ tối thượng thành tựu biện tài; tưởng là chỗ gần gũi đạo Bồ Đề; tưởng là chỗ giáo huấn của A Xà Lê. Như thế những kẻ đến biết tánh của chúng sanh là chỗ thừa sự. Bình đẳng vô ngại xả bỏ tất cả. Ngay cả bỏ xác thân nầy như chỗ mong muốn. Lại nữa tìm chỗ thanh tịnh trang nghiêm đẹp đẽ; xả bỏ tư lợi ấy là niềm vui”.

Luận rằng:

Cho đến người chủ hoặc kẻ tịnh tín, chờ đợi từ xa lại sẽ thanh tịnh. Chỉ vẽ cho đầy đủ sự lợi lạc. Nên như thế mà nghỉ ngơi. Hướng đến thân của Tỳ Kheo có tật bệnh. Ngày xưa đức Phật Thế Tôn cũng thường làm việc ấy.

Như Luật Tỳ Kheo Tạp Tụng (Bhiksuprakirnaka) chép rằng: “Phật bảo: Nầy Phật Tử! ngươi chớ nên đối vớí Tỳ Kheo đang bị bệnh, lơ là và bỏ mặc, mà chính ta đối với Tỳ Kheo đó, còn tôn trọng, giúp đở mọi việc, như mang y đến cho Tỳ Kheo bị bệnh nầy, thậm chí tắm rửa.

Nghe thế A Nan bạch Phật rằng:

-Kính bạch đức Thế Tôn! Như Lai đừng nên tắm rửa Tỳ Kheo bị bệnh và giặt y áo che chỗ bất tịnh. Việc ấy để cho con làm.

Phật bảo A Nan! Ngươi nên giặt y cho vị Tỳ Kheo bệnh nầy. Còn Như Lai sẽ đích thân và tự tay chăm sóc tắm rửa cho ông ấy.

Lúc bấy giờ Ngài Tuệ Mệnh A Nan Đà giặt y cho vị Tỳ Kheo bệnh kia. Còn Như Lai đích thân lấy nước, tự tay tắm rửa cho vị thầy bệnh.

Lúc bấy giờ Ngài Tuệ Mệnh A Nan Đà nói với thầy Tỳ Kheo bệnh rằng: Lành thay! Ông ngồi dậy, tôi chờ ông ngoài nầy. Thầy Tỳ Kheo ấy ra ngoài, Như Lai đích thân, tự tay mình tắm rửa cho Thầy Tỳ Kheo bệnh ấy và nói với A Nan bài kệ rằng:

Ngươi nên làm nhiều việc

Hoan hỷ để cứu độ

Đừng vì chút ưu khổ

Mà xa lìa chúng sanh

Nếu ngươi tín tịnh thanh

Thành tựu ruộng phước lành

Mà ở trong thế gian

Chẳng rời bỏ chúng sanh

Ý kiên cố tu hành

Chỉ thuần là nước sữa

Tôn kính lời chư Thiên

Thường cung kính bậc trên

Giống như vợ mới cưới

Làm việc chẳng chấp nhất

Độ chúng sanh vô tận

Giải thoát rất rộng sâu

Nếu hiện tiền tôn trọng

Cao chót vót ước mong

Ngay nơi tóc chúng sanh

Một lòng lại chẳng động

Nếu đọa ngục A Tỳ

Bây giờ tạo mãi đi

Rộng vì đó giải thoát

Việc lành tu thành đạt

Tự ngã làm chủ tể

Ta thật chẳng có được

Đối với kẻ tạo ác

Chẳng bao giờ khinh mạn

Các căn đều hỷ lạc

Khổ ấy vào phiền não

Do hỷ, căn thanh tịnh

Hóa độ rộng thênh thang

Chúng sanh nếu có khổ

Xem thân như lửa cháy

Tâm dục khởi hẫy hừng

Dùng phương tiện lân mẫn

Thương kẻ tạo tội khổ

Vì thế cầu giải khổ

Nếu khổ cũng phải nhẫn

Như tội mà sám hối

Giả sử như Thế Tôn

Đầu đến chân đều hoại

Từ bỏ hết thế gian

Tiếp nối đức Như Lai

Phụng sự các chúng sanh

Lân mẫn chẳng nghi hoặc

Thấy và làm như thế

Do đâu chẳng tôn kính

Ta gần gũi Như Lai

Chí thành nơi tự lợi

Vì trừ khổ thế gian

Cho nên trì tịnh giới

Như có người sức mạnh

Đập phá chúng tu hành

Chúng sanh thấy như thế

Chẳng muốn làm người nầy

Lại nếu có người mạnh

Mỗi mỗi như sức vua

Không uy đức nào bằng

Sao có thể chinh phạt

Giả sử gặp bạo chúa

Trị quan ngục tốt kia

Có lòng thương, sức mạnh

Phổ độ nơi quần sanh

Giận vì lý do gì

Cũng giống như ngục khổ

Nếu não bức chúng sanh

Tạo ra phải thọ lấy

Vui thay chỗ bố thí

Há dễ được chánh giác

Nếu thuần thục chúng sanh

Bố thí lại cũng thọ

Người sau sẽ thành Phật

Cứu độ hết chúng sanh

Vì sao chẳng quán tưởng

Hiện tiền xưng tán Phật

Nguy nguy thân thanh tịnh

Tuổi thọ thật lâu dài

Chịu được nhẫn sanh tử

Chuyển Luân Vương vui vẻ

Nếu tâm từ cúng dường

Gọi là đại chúng sanh

Phật phước báu thanh tịnh

Vì Phật có tướng nầy.

Luận rằng:

Tu quán từ tâm như Kinh Nguyệt Đăng chép:”Cho đến cúng dường vô lượng vô số trăm ngàn vạn ức bất khả xưng lượng (Ca La Tần Bà La) và chư Phật quốc độ. Sự cúng dường như thế chẳng bằng một niệm từ bi. Như thế lần lượt cung kính cúng dường, thường được xa lìa sự cống cao , như giáo pháp đã tuyên dương”.

Luận rằng:

Người nhất tâm được giải thích như trong Kinh Bảo Vân chép: “Nầy Thiện nam tử! Thế nào là Bồ Tát chẳng như lý? – Vì Bồ Tát gặp nơi nhàn tịnh, ở chỗ không tạp loạn, phát tâm như thế. Ta do tiếp xúc chỗ nhàn tịnh, chỗ chẳng tạp loạn vậy. Tuy ta thuận theo pháp của Như Lai, còn ngươi và các Sa Môn, Bà La Môn đều ở nơi tạp loạn. Ở trong vòng luân hồi bị đắm nhiễm vào nhiều nơi, chẳng thể thuận theo pháp luật của Như Lai. Cho nên Bồ Tát được việc không như lý mà tạo tác”.

Kinh lại cũng chép: “Lúc Bồ Tát khởi tinh tấn; đối với hạnh tinh tấn, chẳng xa lìa lời dạy sai lầm; nghĩa là chẳng tự mình tạo nên cái đức của mình; lại chẳng lăng nhục người khác, cho nên gọi là Thiện Huệ phát sanh. Do đối với tự thể tu tập, cầu sám hối. Như thế Bồ Tát được khiêm hạ tinh tấn”.

Luận rằng:

Trên đây là lược nói về sự hộ thọ dụng phước báo. nếu người hướng đến Bồ Đề, như Kinh Vô Tận Ý chép:”Phật bảo nầy Xá Lợi Tử! Nếu có người ít căn lành hồi hướng đến Bồ Đề; có đến ngồi nơi đạo tràng Bồ Đề, cuối cùng không tan mất. Giống như một giọt nước rơi vào trong biển cả, ở trong kiếp biên tế, chung quy vẫn không tan hoại”.

Thanh Tịnh (Papasodhanam Astamah Paricchedah) – Phẩm Thứ Tám. Phần một

Luận rằng:

Nói về việc hộ thân có ba loại thanh tịnh. Nay sẽ nói ý nghĩa nầy. Thế nào là thân thọ dụng thanh tịnh đầy đủ an ổn? – Nếu người nào ở nơi thân hiện thanh tịnh về sự ăn uống, thành thục Chánh Đẳng Bồ Đề; như Kinh Bí Mật Đại Thừa (Tathagataguhya-Sutra) chép rằng: “Lại nữa Bồ Tát ở trong thành ấp lớn, rộng rãi, có đầy đủ trăm ngàn vô số chúng sanh. Đại Bồ Tát hiện ra tướng chết ở cõi bàng sanh trong thân chúng sanh, cho đến việc ăn thịt, mà khi mạng chung vẫn được sanh thiên giới vào cảnh giới lành. Đây là nhân duyên mãi cho đến khi vào cảnh Niết Bàn. Vì nguyện của Bồ Tát trước đây thanh tịnh cho nên suốt thời gian dài hoàn thành hạnh nguyện Bồ Tát luôn luôn mang lại lợi lạc cho chúng sanh, thậm chí cho đến khi lâm chung cũng có thể xả bỏ thân nầy làm thịt cho chúng sanh thọ hưởng. Đây là nhân duyên được sanh thiên giới; cho đến rốt khi được vào được Niết Bàn. Nếu thành tựu việc trì giới; thành tựu việc tư duy; thành tựu sự kêu cầu; hạnh nguyện trước đây được đầy đủ như thế”.

Kinh cũng chép: “Vì mang lại an lạc cho chúng sanh cho nên Ngài hiện lên pháp thân sáng rỡ; trí tuệ tịch tịnh, giống như đời sống của vị thầy thuốc tập trung các thuốc hay, khéo hòa hợp thành tướng người nữ rất thù diệu đoan chánh, đi đứng, ngồi, nằm đều đoan trang, ai thấy cũng vui. Có các Quốc Vương, Vương tử, Đại thần, Quan trưởng, Trưởng giả, Cư sĩ, đến chỗ Y Vương mà thỉnh cầu cầu cho mạng. Lúc ấy, lấy viên thuốc linh diệu tướng người nữ đó mà cho mang đi. Do sự cho mang đi nầy mà tất cả đều được khinh an chẳng còn bệnh não nữa”.

Phật bảo Tịch Huệ! Vả lại ngươi xem đây là đời sống của Y Vương, sâu trồng những thuốc hay để trừ bệnh cho thế gian; mà trừ Y sư ra chẳng có ai có trí như thế. Nầy Tịch Huệ! Sự hiện ra ánh sáng pháp thân của Bồ Tát cũng như thế. Cho đến nam tử nữ nhơn, đồng nam đồng nữ đối với các chúng sanh , vì tham sân si thay đổi mà thân nầy bốc cháy. Nếu ở trong khoảng khảy móng tay mà tất cả phiền não xa lìa sự đốt cháy, thì thân nầy được nhẹ nhàng. Cho nên Bồ Tát nguyện trước thật được thanh tịnh vậy.

Luận rằng:

Ý nghĩa thanh tịnh của thân đây giống như cỏ bị che mà chẳng thấy; mầm Bồ Đề bị phiền não che khuất, lại chẳng tăng thắng duyên; Nếu không đối trị bằng sự tư duy và kêu cầu, làm sao có thể giải thoát và làm cho kẻ kia được tăng trưởng. Ngươi cùng thế gian nhất tâm như thế; tội nghiệp thanh tịnh tức là thần khí thanh tịnh gọi là chánh giác. Lại nữa kẻ tội, được thanh tịnh.

Như Kinh Tứ Pháp chép:”Phật bảo nầy Từ Thị! Nếu Bồ tát Ma Ha Tát thành tựu bốn pháp; trước tiên phải diệt tội đã tạo chứa trong lâu dài. Thế nào là bốn?

Nghĩa là sám hối những tội lỗi, đối trị những việc làm; dừng bỏ những việc làm và nương tựa sức mạnh vào việc hối lỗi những việc làm kia. Đối với những việc làm bất thiện nghiệp đa phần được cải hối. Hai là việc làm đối trị, khi tạo bất thiện nghiệp rồi sẽ trở thành thiện nghiệp. Phải lấy sự lợi ích mà đối đãi với nhau. Ba là dừng lại những việc làm do đọc tụng những cấm giới chẳng hủy phạm. Bốn là nương vào sức mạnh của việc làm , nghĩa là quy y Phật, Pháp, Tăng Bảo, lại chẳng bỏ mất tâm Bồ Đề. Do đây có thể nương tựa vào một lực lớn, quyết định diệt trừ tội kia.

Phật bảo nầy Từ Thị! Đây là Đại Bồ Tát thành tựu bốn pháp diệt trừ những tội đầu tiên đã tạo ra trong lâu dài.

    Xem thêm:

  • Luận Đại Thừa Bảo Yếu Nghĩa - Luận Tạng
  • Luận Tối Thượng Thừa - Luận Tạng
  • Đại Thừa Khởi Tín Luận - Luận Tạng
  • Luận Nhập Đại Thừa - Luận Tạng
  • Ý Nghĩa Quyết Định Của Pháp Hoa Huyền Tán - Luận Tạng
  • Đại Thừa Kim Cang Kinh Luận - Luận Tạng
  • Luận Đại Thừa Khởi Tín - Luận Tạng
  • Luận Về Đại Thừa Duyên Sanh - Luận Tạng
  • Luận Đại Trí Độ (Trọn bộ 5 tập) - Luận Tạng
  • Luận Kim Cang Đỉnh Du Già Trung Phát Tâm A Nậu Đa La Tam Miệu Tam Bồ Đề - Luận Tạng
  • Luận Đại Tông Địa Huyền Văn Bổn - Luận Tạng
  • Luận Du Già Sư Địa - Luận Tạng
  • Luận Tịnh Độ Thập Nghi - Luận Tạng
  • Đại Thừa Tuyệt Đối Luận - Luận Tạng
  • Đại Thừa Phật Giáo Tư Tưởng Luận - Luận Tạng
  • Giảng Luận Và Giải Thích Luận Nhiếp Đại Thừa - Luận Tạng
  • Sớ Thần Bảo Ký Nhơn Vương Hộ Quốc Kinh Bát Nhã Ba La Mật - Luận Tạng
  • Luận Tâm Bồ Đề Lìa Hình Tướng - Luận Tạng
  • Bài Tán Tâm Kinh Bát Nhã Ba La Mật Đa (Bản 1) - Luận Tạng
  • Thích Nghĩa Luận Nhiếp Đại Thừa - Luận Tạng