1
2
3
4
5
6
7
8
9

QUYỂN 2

CHƯƠNG 3 – BÁO BỔN

Tánh ấy là gốc lớn của con người. Mở đất trời, nhưng không ai biết thuở ban đầu của nó. Cùng muôn đời nhưng không ai biết lúc cùng tận của nó. Phật và chúng sanh đều có tánh này, nếu ngộ tánh ấy thì lên diệu giác, nếu mê tánh ấy thì trôi lăn trong sanh tử. Từ kiếp này sang kiếp khác, sáu đường nẻo lạ, nghiệp báo cứ xoay vần mà không có lúc dứt vậy. Chỗ nhờ cậy là lời dạy dỗ của Thánh mệnh mang có thể làm nơi nương tựa. Hàng tu sĩ dùng hình phục hèn mọn lạm dự pháp hệ, tuân theo hạnh của chư Thánh gọi là Luật, tuyên lời lẽ của chư Thánh gọi là Giáo, truyền tâm của chư Thánh gọi là Thiền, nhưng phải tuân theo cái mà chúng ta cho là căn bản lớn nhất để đồng với diệu dụng toàn thể của Phật thì mới có thể gọi là Phật tử nối tiếp

huệ mạng của Phật. Việc truy điệu các Thánh trong các ngày giỗ kỵ, há là lễ của thế tục sao?

LỄ PHẬT ĐẢN

Trước đó, Đường ty quyên tiền của đại chúng giao cho Khố ty để dinh biện cúng dường, thỉnh mời chế sớ và kiểm sớ (cùng với lễ chúc thọ Hoàng đế giống nhau). Đến ngày, Khố ty thiết trí nghiêm túc hoa đình, trong đó an trí tượng Phật giáng sinh trong chậu đựng nước tHôm, an bài hai cái thìa nhỏ. Trước tượng Phật trưng bày các món cúng dường xong, Trụ trì thượng đường chúc hương rằng: “Phật đản tốt ngày, Trụ trì tại chùa mỗ, Tỷ-kheo mỗ giáp là cháu xa của di giáo (Phật giáo) kiền thành đốt bửu hương, cúng dường đức Bổn sư Thích-ca Như Lai đại Hòa thượng, trên báo đáp bóng che từ bi, dưới những mong chúng sanh trong pháp giới niệm niệm Phật xuất hiện trong đời”. Kế Trụ trì ngồi kiết già bẩm báo: “Ngày mùng 8 tháng tư, cung kính gặp ngày tốt lễ Đản sinh của đức Thích-ca Như Lai đại Hòa thượng. Xin suất lãnh chúng Tỷ-kheo, sắm sanh đầy đủ hương hoa, trà quả, thức ăn ngon lành để bày tỏ (thi triển) cúng dường. Trụ trì là Tỷ-kheo mỗ giáp cháu xa của di giáo (Phật giáo), lên tòa này cử xướng Tông thừa. Sở tập thù huân, trên báo đáp bóng che từ bi, dưới cùng chúng sanh trong pháp giới bày tỏ (triển khai) lễ khánh chúc hy hữu”. Kế thuyết pháp xong bẩm bang rằng: “Xuống tòa mọi người đều đầy đủ oai nghi đến điện Đại Phật để tắm Phật và tụng kinh”. Nói xong xuống tòa, suất lãnh đại chúng cùng lên trên chánh điện, hướng Phật sắp hàng lập định. Trụ trì dâng hương lạy ba lạy, không thâu tọa cụ, tiến tới trước dâng thang thủy, dâng cơm canh. Thị giả thỉnh khách dâng lên, Thị giả đốt hương tiếp bưng đặt trên bàn hương án. Xong Trụ trì quay trở lại vị trí lạy ba lạy, dâng hương lần nữa, dâng tặng phẩm cúng dường, rồi dâng nước trà. Trụ trì lạy ba lạy rồi cuốn thâu tọa cụ. Duy-na vái chào các ban mời thượng hương. Đại chúng trải tọa cụ giập đầu lạy ba lạy, Trụ trì quì trước lư hương, Duy-na bạch Phật rằng: “Một trăng trên trời , ảnh hiện khắp mặt nước. Một Phật ra đời, đều ngồi trên tòa hoa. Hào quang trắng soi trải mà ba cõi sáng trưng, nước cam lồ rưới mà tứ sanh được thấm nhuần”. Duy-na tuyên đọc sớ xong, cử xướng kệ tắm Phật rằng:

“Con nay tắm rửa các Như Lai,

Tịnh trí trang nghiêm công đức tụ,

Chúng sanh ngũ trược lìa cáu bẩn,

Đồng chứng tịnh pháp thân Như Lai.”

Lúc cử hành tắm Phật gần xong, đọc chú Lăng nghiêm, hồi hướng rằng:

“Công đức tụng niệm kinh chú vừa qua, hồi hướng cho chân như thực tế trang nghiêm vô thượng Phật quả bồ-đề. Bốn ơn báo đều, ba cõi cùng trọn, hữu tình trong pháp giới cùng tròn đầy chủng trí. Mười phương ba đời, tất cả Phật v.v…”.

Lời văn của sớ:

Biển cả lặng yên, riêng nghe tiếng vang dội khuấy động của Triều âm. Thái hư rỗng tuếch, chỉ thấy nét dọc ngang phơi bày của cảnh tượng. Do Bổn lớn mà Tích rõ Bởi thời đến nên cơ ứng Khiến quần linh đều thành chánh giác. Từ ngũ trược thị hiện giáng sanh. Cởi áo quý, khoác y dơ, ủy thân tuẫn hình Bỏ Hóa thành đăng Bảo sở, nắm tay cùng về Sơ độ trùng lâm Ơn lớn khó báo.

Phục nguyện,

Phẩy gió mát nơi cuối đời.

Dựng (mặt) trời huệ tại giữa không.

Không Phật không ma, pháp pháp tuyên dương kệ ngọc.

Chẳng dơ chẳng sạch, trần trần xối dội thân vàng.

LỄ PHẬT THÀNH ĐẠO VÀ BÁT NIẾT- BÀN

a- Lễ thành đạo

Trước ngày lễ, Đường ty quyên góp tiền của đại chúng nộp cho khố ty để dinh biện cúng dường. (Duy-na) thỉnh mời (thư ký) viết sớ, (Trụ trì) kiểm sớ (cùng với nghi thức lễ đản sinh giống nhau). Trụ trì thượng đường dâng hương bẩm bạch rằng: “Ngày Phật thành đạo, trụ trì của chùa mỗ là tỉ- kheo mỗ giáp, con cháu xa của di giáo (Phật giáo) phụng vì chúng sanh trong pháp giới, kiền thành dâng hương bẩm báo, cúng dường đức bổn sư Thích- ca Như Lai đại Hòa thượng, hầu trên báo đền bóng râm từ bi, cúi mong chúng sanh trong pháp giới cùng thành Chánh giác!”. Kế ngồi xếp bằng (phu tọa) bạch rằng: “Ngày mùng 8 tháng 12, cung duy gặp ngày thành đạo của bổn sư Thích-ca Như Lai đại Hòa thượng, suất lãnh chúng tỉ-kheo, chuẩn bị trang nghiêm đầy đủ hương, hoa, đèn, đèn cầy, trà quả, thức ăn ngon lành, để biểu thị cúng dường. Trụ trì là tỷ-kheo mỗ giáp, con cháu xa của di giáo (Phật giáo) lên pháp tòa này, cử xướng Tông thừa: “Sở tập thù huân nhằm báo đáp bóng

râm từ bi, phổ nguyện chúng sanh trong pháp giới, phát minh trí huệ của chính mình vào vô số quốc độ như bụi trần mà chuyển đại pháp luân”.

Sau đó thuyết pháp xong, cáo bạch rằng: “Đại chúng xuống tòa, ai ai cũng đầy đủ oai nghi đến đại Phật điện (đại hùng bửu điện) tụng kinh, xin kính cẩn báo bạch!”. Nói xong, xuống tòa suất lãnh chúng lên điện trải tọa cụ giập đầu lạy ba lạy, quì trước lư hương niêm hương. Duy-na bẩm bạch Phật rằng: “Bậc chánh giác trước núi (dưới cội bồ-đề) lúc đầu hôm vừa nhìn thấy ngôi sao sáng rực mà ngộ đạo. Trong tam đại thiên thế giới nêu cao mặt trời huệ để giữ ánh sáng chói lọi”. Tuyên đọc sớ xong, tụng kinh hồi hướng.

b- Lễ bát niết-bàn

Trụ trì trước tiên tại điện Phật dâng hương chúc thọ Thánh Hoàng, tụng kinh xong, trước sau theo thứ tự thượng đường chúc hương rằng: “Ngày Phật bát niết-bàn, Trụ trì chùa mỗ là là Tỷ-kheo mỗ giáp, con cháu xa của di giáo (Phật giáo) kiền thành đốt hương báu cúng dường đức bổn sư Thích-ca Như Lai đại Hòa thượng để hầu trên báo đáp ơn che bóng rợp từ bi, dưới cùng chúng sanh pháp giới đồng biểu thị kẻ dưới lạm kính mộ. Điều mong ước là pháp thân thường trụ, pháp luân tái chuyển, tất cả các loài hữu tình hàm linh đều ngộ vô sanh pháp nhẫn”. Kế ngồi xếp bằng bẩm bạch: “Rằm tháng hai, cung duy gặp ngày đức bổn sư Thích-ca Như Lai đại Hòa thượng nhập Niết-bàn, suất lãnh chúng tỷ-kheo, cụ bị nghiêm túc đầy đủ hương, hoa, đèn, đèn cầy, trà quả, thức ăn ngon lành để bày tỏ (tiến hành) cúng dường. Trụ trì là tỷ-kheo mỗ giáp, con cháu xa của di giáo (Phật giáo) lên trên tòa này, cử dương Niết- bàn diệu tâm. Sở tập thù huân, trên báo đáp ơn che bóng râm từ bi, dưới phổ nguyện tất cả chúng sanh trong pháp giới đồng viên chủng trí”. Thuyết pháp xong, bẩm bạch: “Các đại chúng xuống tòa hãy cụ oai nghi lên điện Phật lớn để tụng kinh, kính cẩn cáo bạch!”. Xuống tòa suất lãnh đại chúng lên trên đại điện trải tọa cụ giập đầu lễ bái ba lạy, quì trước lư hương niêm hương. Duy-na bẩm bạch Phật rằng: “Thân trong pháp giới thanh tịnh vốn không có xuất hiện và mất đi, nhưng nguyện lực đại bi thị hiện thì có lui tới”. Tuyên đọc sớ xong, tụng kinh hồi hướng, cùng với lễ thành đạo vừa nêu trên giống nhau.

Lời văn sớ Thành đạo:

Thành Phật từ vô lượng kiếp, há cần tiến tu ư?

Chúng sanh không biết nguyên lý, nên phải tiên giác vậy!

Tự giác- tha giác mà thành giác đạo

Xuất thế- tại thế nên gọi Thế Tôn

Xiển hóa nghi một đời

Theo di quỹ các Phật

Ngồi dưới cội bồ-đề, ma quân lẫn mất lu mờ

Hiện ra hoa Ưu-bát, pháp luân thường chuyển sáng rỡ

Nên ban đầu ví ánh sáng chiếu buổi mai

Mà về sau biểu thị chánh truyền từ nâng hoa Chân thường tròn sáng nên có- không đều quên bỏ,

Thánh phàm là mộng ảo

Vạn hóa nhồi nặn mà xưa nay như nháy mắt, trời đất ấy mảy lông

Nhìn đời cuối biết gì đâu Đọc di ngôn phải cẩn thận!

Cúi xin, Có-không, tối- sáng, đều tuyên thuyết pháp âm vi diệu

Xuẩn động hàm linh cùng chứng minh đức tướng trí huệ.

Lời văn sớ bát Niết-bàn:

Các thứ đều đến với quần cơ, câu phó thác kinh Pháp hoa thọ ký

Cố sức điều chế kẻ học, lời phù luật kinh Di giáo đàm thường

Như nâng hoa đắc chỉ giao phó pháp chánh truyền

Mà lá rụng về cội thì bọn ta làm được

Bậc giáo hóa đời, rốt lại chấm dứt ở diệt tận, thuận vô thường thế gian

Còn người ngụ nơi cảnh ảo mà quay về chốn chân, gọi là tịch diệt

Nhưng viên ngọc thần vẫn chiếu mãi nơi bẩn

Còn bóng trăng báu nào né dòng nước dơ

Đại định không nơi chốn, thường trụ hằng hà sa kiếp

Viên cơ rộng phổ ứng, thị hiện trăm ngàn ức thân

Cho nên tướng thế gian khó quên mất

Gặp ngày giỗ càng tăng lòng ngưỡng mộ

Cúi xin,

Dẹp bỏ tà kiến của bọn sau muộn

Đẩy lui bạc bẽo ở pháp vận cuối

Định- huệ kiêm tu, dài lâu như chánh pháp trụ thế Thiên ma tuân hóa, đều làm ngoại hộ cho Tông cương.

(TIỂU SỬ ĐỨC PHẬT)

Phật sanh ở Trung Ấn Độ, dòng dõi Sát- đế-lợi, họ Cù-đàm. Tiếng Phạn Cù-đàm, nghĩa tiếng Hoa là Cây mía. Thỉ Tổ của Phật là Vương Tiên bị thợ săn bắn chết, máu thấm vào đất, sanh ra hai gốc mía. Mặt trời soi rọi, một cây sanh ra con trai hiệu Cam giá vương (vua Cây mía), một sanh ra nữ là bậc phi tử hiền lành (của Cam giá vương) sanh một trai, làm Chuyển luân Thánh vương. Nhân do mặt trời soi rọi nên cũng gọi là Nhật Chủng (giống mặt trời), truyền 700 đời đến vua Tịnh Phạn. Phật do công hạnh nhiều kiếp đầy đủ, từ cõi trời Đâu Suất giáng thần vào thai tạng hoàng hậu Ma-da phu nhân ở Vương cung. Phật sanh ngày mùng 8 tháng 4 năm Giáp Dần, nhằm năm thứ 26 vua Chiêu Vương nhà Chu, đặt tên là Tát-ba-tất-đạt. Phật sanh ra mới có bảy ngày thì mẹ qua đời, may nhờ dì là Ma-ha-ba-xà- ba-đề thay mẹ cho bú mớm nuôi nấng. Đến năm 25 tuổi, Ngài vượt thành trốn ra ngoài, chạy đến khu rừng Bạt-già-tiên, lấy gươm cắt tóc, cởi bỏ y phục quí giá, trên người cùng thợ săn đổi lấy áo ca-sa mà làm tỷ-kheo. Lại tiến về phía Bắc qua sông Hằng đến núi Già Xà tĩnh tọa tu khổ hạnh trong sáu năm, mỗi ngày chỉ ăn một hạt mè, một hạt gạo để tiếp tục giữ tinh khí. Lại tự nghĩ nếu lấy thân gầy yếu để giữ đạo thì bọn ngoại đạo sẽ nói tự nhịn đói là nguyên nhân đưa đến Niết-bàn, bèn xuống tắm ở sông Ni-liên rồi nhận bát cháo nhừ pha với sữa của cô gái chăn bò mà uống. Thích đề-hoàn nhơn lấy cỏ tốt lành rải lót dưới đất để Phật ngồi xếp bằng lên trên, ma vương suất lãnh binh ma đến định gia hại, nhưng dùng trăm phương ngàn kế mà vẫn không quấy nhiễu được Phật, (cuối cùng) đành lễ bái sám hối tội mà kéo đi. Ngày mùng 8 tháng 2, chập tối lúc ngôi sao sáng rỡ vừa mọc, hoát nhiên đại ngộ, đắc đạo vô thượng, thành tối chánh giác. (đời tương truyền là ngày mùng 8 tháng chạp, hoặc có người cho do nhà Chu chánh kiến Tý, tức lấy tháng Tý làm tháng Giêng, hoặc có những bằng cớ khác nữa) vào lúc 30 tuổi. Thế là diễn nói kinh Hoa Nghiêm tại đạo tràng Bồ-đề A-lan-nhã nước Ma-kiệt-đề, nhưng kẻ căn cơ thấp bé chưa thể nhập được nên nghe thuyết như kẻ điếc, đứa câm. Trong 21 ngày quán thọ tư duy là phải nhập Niết-bàn. Phạm thiên, Đế thích ân cần mời thỉnh ba lần mới đến Lộc Uyển (vườn Nai) dùng Tam thừa giáo chuyển đại pháp luân, trước hết vì nhóm ông Kiều-trần-như năm người nói các giáo pháp tứ đế, mười hai nhân duyên, và lục độ trải 12 năm, lúc bấy giờ Phật được 42 tuổi. Tới pháp hội Phương Đẳng chuyện gọt rửa đào thải tư tưởng Tiểu thừa Thanh văn cho đệ tử mới tạm khai mở sáng suốt, thế là triển khai giáo pháp “đàn thiên, kích (chiết) tiểu, thán đại, bao viên” thuyết các kinh Đại thừa Duy-ma, Lăng-già, Lăng nghiêm, Bát-nhã. Lại trải qua 30 năm nữa, lúc này Phật được 72 tuổi, thuyết kinh

Pháp hoa. Cho rằng các đệ tử đều có thể đảm nhiệm việc nặng nề là được thọ ký làm Phật, Ngài mới sướng thỏa bổn hoài. Lại trải qua 8 năm nữa, nhằm năm Nhâm Thân năm thứ 53 đời Chu Mục vương, lúc này Phật được 79 tuổi. Phật trước hết đến cõi trời Đao lợi vì mẹ thuyết pháp. Vua Ưu Điền (tưởng Phật vắng bóng) luyến mộ đúc tượng Phật bằng vàng. Tượng này khi nghe Phật từ cung trời Đao lợi trở về liền thân hành đến đón tiếp. Dì của Phật là Ma-ha ba-xà-ba-đề cùng với 500 tỳ- kheo-ni, Xá-lợi-phật, Mục-kiền-liên và bảy vạn A-la- hán không đành lòng thấy Phật Bát Niết-bàn nên cùng lúc đồng nhập diệt. Bồ-tát, tứ chúng, thiên, nhân, bát bộ, điểu thú, các đế vương đều tụ tập đông đủ, nhưng Phật chỉ riêng nhận sự cúng dường sau chót của Thuần đà, vì chư tỉ-kheo thuyết vô thường, khổ-không, lại nói: “Vô thượng chánh pháp tất đã phó chúc cho Ma-ha Ca-diếp, sẽ là nơi nương tựa to lớn cho các ông như Như Lai vậy”. Lại nhân A-nan ở ngoài rừng Bà-la đang bị ma dụ hoặc, bèn ban sắc chỉ cho Văn Thù rằng: “A-nan là em của Ta, phục vụ bên Ta hơn 20 năm, nghe pháp đã đầy đủ như khí cụ rót nước, muốn cho thọ trì kinh Niết-bàn này”. Văn Thù thân phụng sắc chỉ vời gọi A-nan về, Phật nói: “Có phạm chí Tu-bạt-đà-la, 120 tuổi mà chưa bỏ được tính kiêu mạn. Ông phải nói cho ông ấy biết, nửa đêm nay đây Như Lai sẽ bát Niết-bàn”. Phạm chí bèn cùng A-nan đến ra mắt Phật, nghe Ngài thuyết pháp mà đắc quả A-la-hán. Phật bèn nói với mọi người: “Từ khi Ta đắc đạo lần đầu độ nhóm Kiều- trần-như, sau cùng độ Tu-bạt-đà-la, công việc của Ta đã xong xuôi”. Nửa đêm ngày rằm tháng hai biểu thị cáo giới: “Tỉ-kheo các ông, sau khi Ta nhập diệt phải nên tôn giới Luật Ba-la-đề-mộc-xoa là bậc đại sư của các ông như lúc Ta còn tại thế, chẳng chút sai khác”. Trên giường bảy báu, Ngài nằm nghiêng hông bên phải, yên lặng không nói gì cả mà bát Niết-bàn. A- na-luật lên cõi trời Đao lợi báo bẩm với phu nhân Ma-da, rồi từ trên trời lại giáng hạ. Thế Tôn ngồi dậy vì A-na-luật thuyết pháp an ủi, lại nói với A-nan nên biết Ta vì chúng sanh đời sau bất hiếu nên Ta phải từ trong áo quan bằng vàng bước ra vái chào vấn an mẹ. Lúc bấy giờ, Ca-diếp và 500 đệ tử từ núi Kỳ-xà-quật chạy tràn về đến đau buồn nghẹn ngào tác lễ. Lại hiện tướng “thiên bức luân (ngàn dấu tròn)” dưới hai lòng bàn chân. Trời người, ai nấy đều mang củi tHôm đến chỗ hỏa thiêu. Phật hóa lửa tự đốt thân mình bảy ngày mới dứt, chúng thu xá-lợi đầy bảy ảng vàng. Vua A-xà-thế cùng tám quốc vương khác và Đế thích, chư Thiên, Long vương cùng tranh xá-lợi. Đại thần Ưu-bà-cát can ngăn lại, đề nghị nên cùng chia ra, tức chia làm ba phần: một thuộc chư Thiên, một thuộc Long vương, một thuộc tám quốc vương, trong đó vua A-xà-thế được 84.000 viên, lấy hộp bằng chất tử kim chứa đựng, nơi năm khúc sông Hằng, xây tháp cất giữ.

THẦY CỦA VUA QUA ĐỜI

Đến ngày, trên pháp tòa kính an bài vị, y theo phép tắc mà đặt bày trang trí. Chuẩn bị đầy đủ hương, hoa, đèn, trà, quả, thức ăn ngon lành để biểu thị cúng dường. Duy-na thỉnh chế (viết) sớ và kiểm sớ (giống như ở lễ Phật Niết-bàn). Cách đó một đêm, bảo hành giả đường ty thông báo chúng treo bài hiệu Phúng tụng kinh. Đúng ngay ngày lễ, đánh chuông tập họp đại chúng, hướng về pháp tòa đứng xếp hàng như hình bầy nhạn bay để đợi trụ trì đến thượng (dâng) hương, thượng (dâng) thang, dâng cơm cúng, ban phát tài vật bố thí. Dâng trà lễ bái xong, dâng hương (có nói pháp ngữ). Duy-na vái chào mời ban thượng hương, đại chúng phổ đồng lễ bái. Trụ trì quì trước lư hương, (duy-na) tuyên đọc sớ rồi tụng niệm chú và hồi hướng như sau: “Công đức tụng niệm kinh chú vừa rồi phụng vì ngài ‘Hoàng Thiên chi hạ, nhất nhân chi thượng (dưới trời, trên vua) khai giáo tuyên văn, phụ trị đại Thánh, chí đức phổ giác chân trí hựu quốc như ý đại bảo pháp vương, Tây Thiên Phật tử, Đại Nguyên đế sư”, hầu báo đáp bóng rợp từ bi. Mười phương, ba đời tất cả chư Phật v.v….

Lời văn của sớ:

Thiên khải hữu nguyên, nương vào đại Thánh phụ trị

Đạo tôn cao nhất, đúng là pháp vương tuyên văn.

Mật giúp rập hóa cơ

Ngầm đỡ đần vương độ

Thoát lời làm kinh, Cất bước làm pháp, cương vị ở trong ngàn Phật

Phối hộp rộng dài cùng đất, phối hộp cao sáng với trời, tôn quí trên cả nhà vua

Nay đây gặp Thánh kỵ

Càng ngưỡng mộ ân quang

Cúi xin,

Lại cỡi nguyện luân, giúp rập bốn biển đồng văn trị hóa Chiếu cố mạt pháp, chấn hưng ngàn xưa chánh pháp tôn cương.

(TIỂU SỬ ĐẾ SƯ BẠT-HIỆP-TƯ-BÁT)

Đế sư Bạt-hiệp-tư-bát, pháp hiệu Huệ Tràng – Hiền Cát Tường, người nước Thổ Ba, giáng sanh ngày 13 tháng 4 năm Kỷ Hợi, cha tên Tuấn Nam Cám Tạng. Xưa nước Thổ Ba có vị Quốc sư tên Thiền Hằng La Cát Đạt, đắc chánh tri kiến có đại uy thần, nhiều đời truyền nhau, đạo hạnh thù thắng. Các Quốc vương nước này nhiều đời tôn trọng là thầy, trải qua 17 đời đến Tát Tư Gia Oa, tức là bác của sư. Sư thiên tư cao tột, lễ người bác làm thầy. Chương cú vi diệu của thi kệ (già-đà) bí mật 12 ngàn lời, liếc mắt qua là đã thuộc nằm lòng, mới 7 tuổi đã diễn pháp biện bác dọc ngang, năm sư 15 tuổi nhằm năm Quí sửu.

Thế Tổ Hoàng đế còn rồng nằm dưới vực (tức chưa lên ngôi), sư biết rõ chân mạng đế vương sẽ thuộc về ngài, cỡi ngựa chạy đến vương phủ.

Vua lập ngài làm Đông cung Thái tử vẫn giữ giới pháp, lại đặc biệt tôn lễ sư. Trải qua sáu năm, vào năm Canh Thân, Thế Tổ bèn lên ngôi báu. Trong năm đầu vua vừa lên ngôi (tức Chí Nguyên nguyên niên) tôn sư lên làm quốc sư, trao cho ấn ngọc, nhậm chức pháp chủ Trung Nguyên (toàn Trung Hoa), thống lãnh đạo Phật trong thiên hạ, mới lệnh tăng tục phân ty. Năm Kiến Nguyên thứ tư từ biệt đế về Tây, nhưng chưa tròn tháng năm đã có lệnh của đế vời triệu quay về. Năm thứ bảy niên hiệu Chí Nguyên nhằm năm Canh Ngọ, đế xuống chỉ chế tạo chữ quốc gia của Đại Nguyên, sư một mình ngày đêm vận dụng kiểu vẽ, chẳng bao lâu đã hoàn thành, rất toại Thánh ý, liền xuống chiếu ban hành, cả trong triều, ngoài các tỉnh huyện đều tuân lệnh dùng xài, đến nay trở thành điển chương một đời, mới thăng sư hiệu là đế sư Đại Bảo Pháp Vương, lại ban cho ấn ngọc, sau đó lại cũng quay về Tây. Năm thứ 11 niên hiệu Chí Nguyên, đế lại sai chuyên sứ triệu vời về. Về sau lại cực lực từ giã để quay về núi, đế kiên quyết giữ lại mà không được. Ngày 22 tháng 11 năm Kiến Nguyên thứ 17 thì nhập diệt, đế nghe tin không khổi chấn động tiếc thương tưởng nhớ, bèn cho xây tốt-đỗ-ba (tiếng Phạn tốt-đỗ-ba có nghĩa là cái tháp) tại Kinh sư to lớn bảo tàng chân thân xá-lợi, trát vách bằng vàng, xưa nay không nơi nào bì được. (Bài này trích từ trong bia do nhóm các ông Hàn lâm học sĩ Vương Bàn phụng sắc chỉ soạn văn bia). Về sau, thăng hiệu là Hoàng Thiên chi hạ, nhất nhân chi thượng, khai giáo tuyên văn phụ trị đại Thánh chí đức phổ giác chân trí hựu quốc như ý pháp vương Tây Thiên Phật tử Đại Nguyên đế sư.

Chương Báo bổn hết.

CHƯƠNG 4 – TÔN TỔ

Con người ta ai cũng thờ cúng Tổ của mình, tôn trọng buổi ban đầu hình sanh của Tổ. Hình sanh ban đầu do nơi ái, nhưng hình có lúc rồi phải hóa mất, ái có lúc rồi phải dứt tận. Chỉ có linh nhiên chẳng muội (mờ) của tánh là không cần ỷ nhờ vào sanh mà tồn tại, cũng chẳng cùng với chết mà mất. Cho nên người Phật giáo tất minh tánh, mà rồi học giả đời sau nhầm lẫn nơi văn chương và lời lẽ, cho nên không được chỉ chỗ quay về, giống như trị bệnh theo sách thuốc hay mà bỏ thuốc men thì có ích lợi gì đâu. Kịp khi sơ tổ Bồ-đề-đạt-ma của chúng ta đến Trung Quốc, chỉ thị đạo trực chỉ (chỉ thẳng tâm) mà rồi con người mới được rộng thoáng nhìn thấy diệu dụng của tự tánh, không cần chữ nghĩa, không nhờ nói – nín, nhưng mà đắc nơi ngoài tiếng nói – cười (khánh khái) – hình tiếng, thì đó mới đúng là hàng tu sĩ chúng ta truyền Tổ đạo, nối Tổ vị, như củi đốt lửa, khí cụ múc nước, trong khoảng xưa nay chẳng có chút tóc tơ gì khác nhau cả, há chẳng phải trọng ở hình sanh đó sao? Về sau, thiền sư Bách Trượng Đại Trí lại trước tác sách Thanh Qui để đặt để chúng ta đúng chỗ mà Thiền lâm nhờ đó bắt đầu. Các Ngài đứng đắn chốn hải hội cho rằng nên thờ Đạt-ma ở chính giữa, Bách Trượng bồi đặt bên phải, còn các người khai sáng chùa thì nên cùng phối hộp mà thờ vậy (rút ra từ bài tựa sách Tổ đường cương kỷ).

GIỖ KỴ TỔ SƯ BỒ-ĐỀ-ĐẠT-MA

Trước ngày giỗ, đường ty quyên tiền đại chúng dinh biện cúng dường, thỉnh mời chế (viết) sớ và kiểm sớ (cũng giống như ở lễ Phật bát Niết-bàn). Cách ngày lễ một đêm, y theo phép tắc thiết đặt, trang trí pháp đường. Trên pháp tòa treo chân dung của Tổ sư, ngay giữa pháp tòa thiết đặt nghiêm túc đầy đủ tiệc tế, lư hương, tịnh bình và bàn đặt lư hương. Bên mé phải đặt ghế Thiền, cây xơ quất (phất tử), giá máng pháp y (thiết đặt giường chõng là sai vậy). Mé bên trái thiết đặt ghế Thiền, bàn để kinh, lư hương, tịnh bình, hương, đèn cầy và các quyển kinh. Hành giả đường ty thông báo đại chúng treo bài hiệu (bảng hiệu) Tụng kinh, ngay đêm đó tụng kinh và bẩm báo đại chúng hôm sau vào lúc giữa giờ dùng cháo và cơm trưa (bán trai) ai ai cũng cụ bị oai nghi, bày lễ vật mà giỗ kỵ cùng tụng kinh. Trước vãn tham đánh chuông trước tăng đường, tập họp chúng chờ trụ trì đến, gióng trống đặc biệt hiến thang thủy. Trụ trì dâng hương lạy ba lạy, không cuốn thâu tọa cụ. Dâng bày thang thủy, lui người lạy ba lạy rồi lại tiến tới trước vái chào vấn an xong thỉnh mời dùng thang thủy, quay về vị trí lạy ba lạy, cuốn thâu tọa cụ, gióng trống ba tiếng. Hành giả đánh khánh cầm tay, duy-na rời khổi ban, niệm tụng rằng: “Thiết nghĩ, Thiền tông truyền trực chỉ nhân tâm (kiến tánh thành Phật). Phận hèn mọn mượn chút nước rịn của sóng to dư sót lại. Đạo to lớn không thể gọi tên được, hổ thẹn liền ánh sáng rạng rỡ nơi hậu duệ cuối chót. Kính mong nhờ đại chúng niệm pháp thân thanh tịnh Tỳ-lô-giá-na Phật hiệu 10 lần! v.v…”, rồi hồi hướng rằng: “Công đức niệm tụng vừa rồi, phụng vì sơ

tổ Bồ-đề-đạt-ma Viên Giác đại sư đại Hòa thượng, hầu báo đáp bóng rợp từ bi mười phương ba đời chư Phật v.v…”.

Hồi hướng xong, thỉnh ba tiếng chuông tăng đường, chúng phân tán hết hoặc mời thỉnh về trai đường dùng cơm tối. Khi chuông báo tối đánh lên, lại dộng chuông tăng đường tập họp chúng. Trụ trì dâng hương, duy-na đọc chú Lăng nghiêm. Đọc chú xong, hồi hướng rằng: “Thân pháp giới thanh tịnh vốn không có xuất hiện và mất đi, nhưng vì nguyện lực đại bi mà thị hiện có tới lui. Ngẩng đầu trông mong từ bi, cúi đầu xin chiêu giám. Ngày mùng 5 tháng này, phục duy gặp ngày thị tịch của sơ tổ Bồ-đề-đạt- ma Viên Giác đại sư đại Hòa thượng. Suất lãnh chúng tỉ-kheo dinh bị hương và cơm thịnh soạn để biểu thị cúng dường, tụng đọc thần chú Đại Phật đảnh vạn hạnh thủ Lăng nghiêm. Thù huân gom góp được nhằm báo đáp bóng râm từ bi. Phục nguyện quần cơ được nhờ cậy, truyền bá tuyên dương gia phong của Thiếu Thất, diệu trí vô cùng, thành tựu căn khí Đại thừa, mười phương ba đời, tất cả chư Phật v.v…”. Kế đó, tham đầu suất lãnh chúng hành giả đứng xếp hàng, cao giọng nói: “Tham, lễ bái, tụng đọc kinh chú”, nhân viên tuỳ tùng đứng sắp hàng tham bái. Sáng hôm sau, trụ trì dâng hương lễ bái, dâng bày thang thủy, dâng bày cháo cúng, bên mé pháp tòa ngồi ăn và bầu bạn. Dùng cháo xong trụ trì dâng hương, dâng trà. Duy-na đọc chú Đại bi, hồi hướng rằng: “Công đức đọc tụng kinh vừa rồi, phụng vì sơ tổ Bồ-đề-đạt-ma Viên Giác đại sư đại Hòa thượng, hầu báo đáp bóng râm từ bi, mười phương, ba đời tất cả chư Phật v.v…”. Vào giữa giờ cháo sáng và cơm trưa (bán trai điểm tâm), thỉnh chuông tăng đường tập họp đại chúng, hướng về chân dung Tổ đứng sắp hàng. Trụ trì dâng hương lạy ba lạy, không cuốn thâu tọa cụ, tiến tới trước lư hương, dâng bày thang thủy, cơm cúng. Thị giả thỉnh khách cung kính dâng lên, đợi thị giả đốt hương đến bên cạnh Tổ vị bưng đồ cúng dâng lên đặt trên bàn, trụ trì thoái lui về vị trí lạy ba lạy, lại tiến tới trước đốt hương ban phát tài vật bố thí xong lạy ba lạy, cuốn thâu tọa cụ, đánh trống đặc vì Tổ dâng trà (cũng như dâng thang thủy). Xong trụ trì dâng hương rồi ban pháp ngữ. Hành giả giập chập chỏa (não bạt), duy-na bước ra khổi ban, vái chào mời trụ trì dâng hương. Thị giả bưng hộp hương. Kế đó, Đông đường – Tây đường và lưỡng tự bước ra khổi ban dâng hương. Đại chúng cùng trải tọa cụ giập đầu lạy ba lạy, duy-na bẩm bạch rằng: “Thân pháp giới thanh tịnh vốn không có xuất hiện và mất đi, nhưng vì nguyện lực đại bi mà thị hiện có tới lui”. Duy-na tuyên đọc sớ xong, trụ trì quì trước lư hương, kế duy-na đọc tụng chú Lăng nghiêm, xong hồi hướng rằng: “Công đức tụng niệm kinh chú vừa rồi phụng vì sơ tổ Bồ-đề-đạt-ma Viên Giác đại sư đại Hòa thượng để báo đáp bóng râm từ bi. Mười phương ba đời tất cả chư Phật v.v…”. Kế đến, hành giả phúng tụng kinh.

Lời văn của sớ:

To lớn thay chánh truyền, nối dòng dõi Giác Hoàng

Trống trơn vô Thánh, phá ách yếu nghĩa học

Trăm dòng sông ra ngoài biển, dứt tuyệt mọi dòng chảy khác nhau

Mặt trời sáng treo trên không, chẳng còn các hình ảnh riêng rẽ

Chỉ thẳng tâm người mà thành Phật, thành Phật đồng tâm

Khế hợp đạo diệu mà quên lời, quên lời thấy đạo Lập công to với thế giáo

Chấn động rộng nơi Tông phong

Hiện bóng hoa ưu-đàm tại đời bẩn, đúng làm Tổ ban đầu

Nắm khí vận Đại thừa nơi Trung Quốc, trọn nhập vào khuôn khổ

Vừa gặp ngày chôn giày Bèn dâng lễ cúng rau

Cúi xin,

Tín y biểu thị, việc lớn của Phật-Tổ, sức giở ngàn cân

Một hoa nở xòe, mùa xuân của trời đất, tHôm liền muôn năm.

(SƠ LƯỢC TIỂU SỬ TỔ BỒ-ĐỀ-ĐẠT-MA)

Tổ sư Bồ-đề-đạt-ma là con trai thứ ba của vua Hương Chí nước Nam Thiên Trúc (Ấn Độ), dòng dõi Sát-đế-lợi, vốn tên là Bồ-đề-đa-la. Sau gặp Tổ thứ 27 là tôn giả Bát-nhã đa-la, biết mật tích của sư bèn thử bảo cùng hai anh biện luận bảo châu vua Hương Chí bố thí cho Tôn giả, phát minh tâm yếu. Thế rồi Tôn giả bảo rằng: “Ông đối với các pháp đã được thông lượng. Này, Đạt-ma có nghĩa là thông đại, vậy nên đặt tên là Đạt-ma”, nhân đó đổi tên lại gọi là Bồ-đề-đạt-ma. Sư bèn bạch với Tôn giả rằng: “Con đã được pháp thì nên đi đến xứ nào để làm Phật sự? Nguyện Tổ xót thương mà khai thị!”, Tôn giả bảo: “Ông tuy đã đắc pháp nhưng không nên đi xa mà nên dừng lại ở Nam Thiên Trúc. Đợi sau khi ta thị diệt 67 năm rồi hẵng đến nước Chấn Đán (Trung Hoa) thiết lập thuốc pháp to lớn để trực tiếp độ bậc thượng căn, chớ nên gấp đi mà sẽ suy bại nơi Lạc Dương (nguyên văn viết mí mửng Nhật hạ ẩn ý chỉ Lạc Dương”. Ngày 21 tháng 9 năm Đinh Mùi, nhằm năm thứ 8 niên hiệu Phổ Thông nhà Lương (527), sư đến quận Nam Hải (miền Nam Trung Quốc). Quan thứ sử Quảng Châu là Tiêu Ngang dâng biểu tâu lên vua Vũ Đế nhà Lương, đế sai sứ nghinh vời. Ngày mùng 1 tháng 10, sư đến Kim Lăng cùng đế trao đổi biện luận, mà chẳng khế hộp. Ngày 19 tháng đó, sư qua sông đi về phương Bắc. Ngày 23 tháng 11, sư đến Lạc Dương [kinh đô nhà Bắc Ngụy (Nguyên Ngụy)] gặp nhằm năm thứ 10 niên hiệu Thái Hòa đời Ngụy Hiếu Minh Đế (486), dừng ngụ tại chùa Thiếu Lâm ở Tung Sơn, quay mặt vô vách mà tọa Thiền, suốt ngày lặng thinh, mọi người không suy lường nổi nên gọi là ông Ấn Độ nhìn vách. Đến ngày mùng 5 tháng 10 năm Bính Thìn nhằm năm thứ 19 niên hiệu Thái Hòa nhà Ngụy, sư ngồi ngay ngắn lặng yên mà qua đời. Ngày 28 tháng chạp năm đó, đem an táng ở núi Hùng Nhĩ, xây tháp tại chùa Định Lâm. Nhà Đường thụy phong là Viên Giác đại sư, tháp tên là Không Quán.

GIỖ KỴ THIỀN SƯ BÁCH TRƯỢNG HOÀI HẢI

Trước ngày giỗ, đường ty quyên tiền của đại chúng để sắm sanh cúng dường. Đến ngày giỗ, cách đó một đêm y theo phép tắc bày trí pháp đường, trên pháp tòa treo chân dung của tổ sư Bách Trượng, thiết đặt hực hỡ tiệc cúng tại gian chính giữa. Gian bên phải và bên trái đặt bàn bày trí đồ cúng, ngay tối đó tụng kinh. Đúng ngày lễ chính, bày lễ vật ra giỗ kỵ (tán kỵ) đặc biệt dọn trà thang, dâng hương, tuyên đọc sớ văn. (Thủ tọa) ra khổi ban dâng hương, đại chúng trải tọa cụ giập đầu lạy ba lạy (cũng giống như lễ giỗ kỵ tổ sư Đạt-ma, nhưng không có tụng niệm kinh). Đầu hôm hồi hướng rằng: “Thân pháp giới thanh tịnh vốn không có xuất hiện và mất đi, nhưng vì nguyện lực đại bi mà hiển thị có đến đi. Ngẩng đầu mong từ bi, cúi xuống xin chiêu giám. Ngày 17 tháng giêng phục gặp ngày thị tịch của thiền sư đại Hòa thượng Bách Trượng Đại Trí Giác Chiếu Hoằng Tông Diệu Hạnh, quyên tiền chúng tỉ- kheo sắm sửa hương, thức ăn ngon lành để biểu thị cúng dường, đọc tụng thần chú Phật đảnh vạn hạnh thủ Lăng nghiêm. Sở tập thù huân, nhằm báo đáp bóng rợp từ bi, những mong hoa ưu-đàm lại xuất hiện, trùng khai nét xuân giác hoa, mặt trời huệ sáng dài lâu, mãi soi rọi đêm trường tối tăm. Mười phương ba đời chư Phật v.v…”.

Lời văn của sớ:

Một lời nói, pháp độ khắp thiên hạ, trong khuôn trong mẫu

Muôn đời biết, sư đạo được tôn trọng, có mối có giềng Ấy,

Nghĩ nét long thịnh lễ nhạc tùng lâm hưng thịnh

Thấy vẻ dồi dào, rồng voi tiệc pháp

Hán Phạn đồng văn, phú nghĩ thạnh cừ thiên lộc

Kinh luật tương tế, nghiêm như kim khoa ngọc điều

Có nghi thức bố vũ trên pháp đường

Chẳng lễ nhạc xoàng xĩnh ngoài đồng ruộng

Nắm dụng đó, mà rời dụng đó, hồi thoát trùng huyền

Ra ở cơ mà vào cũng ở cơ, lý cùng các diệu

Nên phụ Thiền Tổ mà thờ kề

Ấy tuân ngày giỗ mà cúng trai

Cúi xin,

Phướn đẹp tinh tấn Đế thích kiềm chế ma ngoại

Cây to bóng mát Lâm Tế che rợp diêm-phù.

(TIỂU SỬ THIỀN SƯ BÁCH TRƯỢNG HOÀI HẢI)

Sư con nhà họ Vương, người Trường Lạc Phước Châu. Lúc tóc còn để chỏm, đã lìa xa cõi trần lụy. Tam học giới-định- huệ đều luyện tập cả, sư thuộc pháp tịch do thiền sư Mã tổ Đạo Nhất xiển hóa ở Giang Tây lúc long thạnh, trong đó có các thiền sư danh tiếng được coi là bậc kiệt xuất (long tượng) trong Thiền tông như Đại Châu Huệ Hải, Nam Tuyền Phổ Nguyện, Qui Tông Trí Thường, nhưng sư lại là thượng thủ trong hội. Kịp khi Mã Tổ thị tịch tại Lặc Đàm, sư kế thừa Tông tự nhưng do chúng nương náu quá đông, không thể chứa nổi nên định bỏ đi nơi khác. Đường đi qua đất Tân Ngô, dừng xe cộ tạm nghỉ ngơi dưới chân ngọn núi. Có Cam Trinh du chơi tình nguyện hiến đất mời sư ở, kế đại chúng cũng vừa chờ tới bèn cất chùa to cho đại chúng ở. Ngày 17 tháng giêng năm Nguyên Hòa thứ 9 (814), sư qui tịch. Lúc đó, rừng Bân (cây bân) không nắng hạn mà héo hết, khe Linh đang mùa xuân mà khô cạn. Tứ chúng kêu khóc thảm thiết, an táng sư tại ngọn Đại Hùng (Đại Hùng phong). Nguyên trước kia có nhà sư Ấn Độ là Tư Mã đầu-đà tìm đất làm chỗ chôn sư nói: “Bên cạnh nối liền ba ngọn núi chưa cùng sự huyền diệu. Đây là chỗ ở của bậc pháp vương, bậc thầy gương mẫu của cả thiên hạ”, mà rồi người đời cũng tin như thế.

Năm đầu niên hiệu Trường Khánh đời Đường (821) sắc thụy sư là Đại Trí thiền sư, tháp tên là Đại bửu thắng luân.

Năm đầu niên hiệu Đại Quan nhà Tống (1107) sắc thụy thêm Giác Chiếu, tháp tên Huệ tụ.

Năm thứ ba niên hiệu Nguyên Thống nhà Đại Nguyên sắc thụy thêm Hoằng Tông Diệu Hạnh thiền sư.

GIỖ KỴ LỊCH ĐẠI TỔ SƯ KHAI SÁNG CHÙA

Giỗ kỵ các bậc khai sáng chùa cúng các bậc đạo hạnh sùng trọng và các vị có công hoàn thành trọn vẹn với chùa. Cách đó một đêm, bày biện trang trí trên pháp đường, lễ nghi cùng với lễ giỗ kỵ thiền sư Bách Trượng Hoài Hải giống nhau, nhưng có thể không có đọc sớ. Khố ty cụ bị cúng dường. Nếu là giỗ kỵ Tổ sư các đời thì không cần dâng sớ, không hiến dâng trà thang. Đến kỳ, đường ty (liêu duy-na) dự báo khố ty cụ bị việc cúng dường. Rước thỉnh bài vị, tựu pháp tòa phía Tây bài trí. Dùng cháo xong, tập họp đại chúng. Trụ trì và lưỡng tự đứng sắp thành cùng một hàng, duy-na bước ra khổi ban vái chào mời thượng hương xong quay về vị trí, cùng trải tọa cụ giập đầu lạy ba lạy. Thị giả đứng ở cuối ban lễ bái (thanh qui đời Chí Đại chép: “Có chỗ tựu tập Tổ đường dâng cơm cúng rồi tụng kinh là không đúng phép tắc”, đọc chú Đại Bi hồi hướng rằng: “Bảo minh hư không và đại hải, sóng to nhồi dập bè tử sinh nổi trôi. Đại tịch định môn, dung hộp tướng lui tới xưa nay. Ngưỡng mong trinh từ, cúi cầu chiêu giám. Chùa nhà ngày mỗ tháng này, gặp ngày kỷ niệm ngày thị tịch của thiền sư mỗ, pháp hiệu mỗ, tiền sinh trụ trì đời thứ mỗ của chùa nhà, dinh biện thức ăn ngon thể hiện cúng dường. Đại chúng tỉ- kheo phúng tụng thần chú Đại bi, sở tập thù huân cầu cho mỗ cố thiền sư tăng cao thêm phẩm vị. Phục nguyện, tuệ nhật trùng huy, rạng rỡ hạt giống của Tổ thất quang minh, linh căn lại mọc rộng, phục hồi nét xuân của cây cối bông trái Thiếu Lâm v.v…”.

Hoặc người đồng hương của trụ trì hoặc các bậc cao tăng ẩn dật đọc chú, thì hồi hướng rằng: “Công đức đọc tụng kinh chú vừa rồi phụng vì đại Hòa thượng pháp hiệu mỗ tăng thêm phẩm vị. Mười phương, ba đời chư Phật v.v…”. Hoặc có tặng phát tài vật bố thí tất đọc chú Lăng nghiêm, hồi hướng cũng như vừa nói ở trên.

GIỖ KỴ THẦY TRUYỀN PHÁP CỦA TRỤ TRÌ

Các bậc tiên đức duy kích dương Tông thừa, phát minh Phật tính của chính mình (tự kỷ Phật), chỉ dạy kẻ hậu học tri hữu giao nhận để mà báo ơn Thầy tổ. Do đó mà thiền sư Ba Lăng Hạo Giám ba lần chuyển ngữ để giỗ kỵ thiền sư Vân Môn Văn Yển, ấy là bậc tiền bối có ý sâu xa vậy. Nhưng chuyện tôn sư trọng đạo, lễ nghĩa ấy không thể bỏ phế vậy. Trước ngày giỗ, trụ trì xuất tiền của cá nhân mình giao cho khố ty để bày biện lễ tế cúng kiến. Trước đó một đêm, tề tựu pháp đường y như phép tắc mà bày biện. Hành giả đường ty thông báo đại chúng treo bài hiệu Phúng tụng, ngay tối hôm đó đọc tụng chú Lăng nghiêm. Người đồng hương và bạn đạo cùng thầy (pháp quyến) của trụ trì đọc chú Đại bi. Kế đó, hành giả tụng kinh hồi hướng. Các phần đọc tụng và hồi hướng cũng giống các lễ giỗ kỵ ở trước. Sáng sớm hôm sau, trụ trì dâng cúng cháo. Dùng cháo sáng xong, đại chúng tụng đọc chú Đại bi. Người đồng hương và bạn đạo cùng thầy (pháp quyến) của trụ trì cũng đọc chú. Lúc bán trai tức là giữa cháo sáng và cơm trưa phóng tán tiền vật cúng giỗ, tụng kinh. Trụ trì dâng cơm cúng, tiến hành lễ dâng trà, dâng hương (giống như ở lễ giỗ kỵ tổ sư Đạt-ma). Lưỡng tự dâng hương, đại chúng đồng lễ bái (do dưới Thượng tọa trở xuống đều gọi là người tham học).

Vào giờ độ trai, trụ trì vào tăng đường đốt hương, trải tọa cụ giập đầu lạy ba lạy rồi quay về vị trí. Thị giả y bát tặng tài vật bố thí (có nơi nhân lúc tề tựu pháp đường tụng kinh, tặng phát tài vật mà bố thí là không đúng lễ phép). Độ trai xong, tề tựu pháp tòa dâng trà, thị giả đốt hương hành lễ. Nếu cử hành đãi thang thủy tại lễ bầu bạn cùng chân dung thầy truyền pháp thì độ trai xong, khách đầu thất phương trượng mời Tây đường và lưỡng tự buổi tối đối diện với chân dung thầy truyền pháp bầu bạn dùng thang thủy, bày bài vị ở vị trí bên phía phải của pháp tòa. Trụ trì vái chào mời tựu tòa đốt hương dâng cúng thang thủy, đồng thời dâng mời người ngồi bầu bạn dùng thang thủy rồi thoái thân đốt hương trải tọa cụ giập đầu lạy chân dung thầy truyền pháp ba lạy, đoạn đứng dậy vái chào vấn an cảm tạ người ngồi bầu bạn, đánh ba tiếng trống rời khổi tòa. Nếu như có năm ba vị Tây đường tham dự thì chia ra làm hai tòa: tòa thứ nhất, Tây đường dùng thang thủy do trụ trì hành lễ. Tòa thứ hai, lưỡng tự dùng thang thủy do thị giả hành lễ, nếu không có Tây đường thì thôi. Tụng kinh xong dọn đãi thang thủy và trái cây, dự trù mời lưỡng tự, cần cựu. Như có pháp quyến hay bậc tôn trưởng hay huynh đệ đồng môn của trụ trì đang ở tại chùa thì cũng phải thỉnh mời tham dự. Tiểu sư (đệ tử), sư tôn (cháu pháp) của trụ trì thì không được dự chung tiệc đãi. Sau khi mọi người tọa định, trụ trì đứng lên đốt hương, dâng đãi thang thủy. Xong, thị giả đốt hương hành lễ dâng thang quả.

Chương Tôn tổ hết.

CHƯƠNG 5 – TRỤ TRÌ

Phật giáo du nhập vào Trung Quốc ngót 400 năm thì tổ Bồ-đề-đạt-ma đến nước này, lại truyền 8 đời mới đến Thiền sư Bách Trượng Hoài Hải, đều lấy đạo pháp truyền thụ nhau. Hoặc ở hang động, hoặc ở nhờ chùa luật chứ chưa có tên gọi chức vụ trụ trì. Thiền sư Bách Trượng nhân việc Thiền tông ngày càng thịnh hành, trên từ vua,

tể tướng, vương công, dưới đến Nho-Lão và trăm nhà tư tưởng đều hưởng ứng phong thái mà hỏi đạo. Lại có đồ chúng thật là đông đảo, nếu không tôn sùng cương vị của người lãnh đạo thì sư pháp không nghiêm, do đó mới tôn phụng thầy mình làm trụ trì mà gọi tôn trọng là Trưởng lão, như xưa kia bên Tây Trúc đã gọi tôn kính ngài Xá-lợi-phất và ngài Tu-bồ-đề do tuổi tác của các ngài lớn mà đạo đức lại cao vậy. Lại xây cất tăng đường rộng lớn để đồ chúng của trụ trì cư trú, thiết lập lưỡng tự để phân chia bớt chức vụ quản lý công việc nhà chùa. Do vậy mà chế độ được điều lý rõ ràng, hoàn thiện rực rỡ. Đến như làm lụng công việc, ngài Bách Trượng chủ trương trụ trì phải cùng đại chúng chia xẻ đều nhau lao khổ. Ngài thường nói: “Ngày nào không làm lụng công việc thì ngày đó không ăn cơm, nhờ vậy mà đâu có ai nói được”. Kho lẫm đầy ắp lúa thóc đều là do hàng bộc dịch của chùa làm ra mà thôi. Do vậy mà trên từ trụ trì, dưới đến các chức sự đều do đại chúng trong chùa suy cử rồi sau đó mới được quan phủ bổ nhiệm. Thế mà còn có không biết bao người từ chối không chịu nhận chức vụ được đề cử, nhưng về sau thì diễn biến xấu đi như dùng tiền bạc hối lộ mua chuộc, hoặc dùng thủ đoạn xảo quyệt hay quyền lực để cưỡng đoạt, biến chức vụ trụ trì và các chức vụ khác trong chùa thành món hàng béo bở đầu cơ tích trữ để hốt bạc. Nếu như không chọn được người đúng đắn vào chức vụ thì sẽ đưa đến việc thanh danh cả chùa sụp đổ tan hoang, lại kéo thêm việc lập bè kết phái di họa cho đời sau kéo dài mấy mươi năm, lan rộng khó có thể ngăn chặn giải quyết được, mặc dù thỉnh thoảng cũng có nghe lời đồn đại các kẻ xấu này khi chết đi phải bị quả báo tàn khốc dưới cõi âm mà sự thê thảm đó chẳng có ai nỡ nghe, há không đủ để người ta sợ hãi mà tự răn đe mình sao?

QUI TẮC HÀNH SỰ HẰNG NGÀY CỦA TRỤ TRÌ – THƯỢNG ĐƯỜNG

Phàm tới ngày rằm hay mùng một thì buổi tối trước đó một hôm, thị giả phải bẩm báo với trụ trì rằng: “Sáng mai là ngày chúc Thánh phải thượng đường”. Sáng sớm hôm sau lại bẩm báo một lần nữa, rồi dặn dò hành giả khách đầu treo bảng “Thượng đường” để thông báo cho đại chúng. Sau khi dùng cháo xong, không gióng ba hồi chuông hạ tăng đường như thường lệ mà đợi cho đến khi bài trí pháp tòa xong thì hành giả đường ty (duy-na liêu) phúc báo thủ tọa, đánh vân bản trước các liêu, đại chúng tề tựu ngồi tại tăng đường, hành giả thất phương trượng mới bẩm báo lại với Trụ trì, kế đó báo với thị giả gióng trống. Lưỡng tự lãnh đạo đại chúng đến trước pháp tòa hướng về Trụ trì vái chào thăm hỏi, phân ra hai ban đứng đối diện nhau. Thị giả thỉnh mời Trụ trì ra, Trụ trì lên pháp tòa thắp hương (nhang) chúc thọ Thánh

thượng (xin xem rõ lại ở chương Chúc ly), rồi ngồi phu tòa (xếp bằng) khải phát Thiền lý cho học chúng, xiển dương đạo pháp. Trong trường hộp tại buổi thuyết giảng mà có khách tham dự thì phải nói lời cảm tạ. Nếu giảng nhiều đề tài thì phải ghi chép mục lục, đề phòng khi quên sót thì được thị giả nhắc nhở. Hoặc giả có trụ trì, các bậc danh đức hay Tây đường của các chùa bạn quanh vùng tham dự thì phải bày trí vị trí ngồi ở bên phải pháp tòa. Còn nếu có quan viên đến tham dự thì phải bày trí tòa vị của họ đối diện với pháp tòa (tuy nhiên nếu quan viên nào biết trọng lễ nghi của Phật pháp thì không dám ngồi vào tòa vị này). Trong trường hộp thượng đường vào các ngày ngũ tham thì nghi thức có phần giản đơn hơn, tức lưỡng tự đến trước trụ trì làm lễ tham kiến rồi quay về vị trí của mình ngay mà đứng. Trụ trì lên pháp tòa nhưng không dâng hương, còn các nghi thức khác thì giống như đã nói ở phía trước. Nếu có các bậc tôn túc thăm viếng, trụ trì vì họ thượng đường thì kính hướng dẫn họ cùng lên pháp tòa giới thiệu để họ thuyết pháp, hoặc theo lời thỉnh cầu của thí chủ mà trụ trì thượng đường, thì trong cả hai trường hộp này đều không cần phải căn cứ vào thời gian pháp định mà có thể tùy nghi cử hành bất cứ lúc nào thuận tiện.

Thuở xưa, người học vì muốn cắt đứt nghi hoặc nên phải có tham hỏi để đối đáp. Ban đầu không trệ kẹt nơi lời lẽ, nhưng mấy lúc gần đây, kẻ xưng hiệu Thiền khách đều mờ (chối bỏ) nhân quả, tăng trưởng thói hư tật xấu, coi chuyện đó như trò hề, cười nói bô bô, thật mất hết phong cách, thì còn nói chi là thuyết pháp cử dương Tông thừa hay chúc thọ Thánh thượng ư? Nếu có quan chức hay bậc danh đức đến chùa, thì nên ít đi phần tự trần này nọ riêng tư. Ngày nay thì người tu sĩ nói quá nhiều về khen chê, khiến vướng kẹt trái pháp thức. Như bàn bạc công việc nhà chùa thì phương trượng mời trà (lưỡng tự và thủ tọa) rồi cùng nghị luận những công việc đó, chứ đừng có nói tới các việc tạp nhạp khác khiến mọi người chẳng thích nghe.

THAM VẤN BUỔI CHIỀU

Phàm tập họp đại chúng khai thị Thiền pháp đều gọi là tham. Người xưa dạy dỗ đồ chúng khiến họ sớm tối phải đến hỏi han bàn bạc, không có phút giây nào mà không kích dương (nghiên tầm, xiển dương) đạo pháp. Do đó mà mỗi buổi chiều tất có buổi tham diễn ra vào lúc xế chiều, nhưng đến ngày nay buổi tọa tham trong chốn tùng lâm được cử hành vào năm ngày tham, tức mùng 1, mùng 5, rằm, 20, 25. Vào 5 ngày này, trụ trì phải thăng tòa thuyết pháp. Sở dĩ gọi là tọa tham vì trong thời gian nghe trụ trì thăng tòa thuyết pháp, đại chúng đều ngồi ở pháp đường (xem rành rõ đầy đủ ở chương Chúc ly). Nếu trụ trì vì kẹt việc gì đó mà đến chiều bãi bỏ buổi vãn tham thì hành giả đường ty vâng mạng lệnh của trụ trì bẩm báo lại với thủ tọa, gióng ba tiếng chuông tại tăng đường, gọi là chuông bãi bỏ buổi vãn tham. Như tân trụ trì vào viện, hay các quan chức hoặc thí chủ vào chùa, hoặc nhận lời mời thỉnh đặc biệt của người nào đó, hoặc phải khai thị thuyết pháp cho người qua đời, hoặc gặp bốn ngày lễ lớn của chốn tùng lâm thì dời thời gian vãn tham tới sau khi chuông hoàng hôn đánh rồi mới cử hành và được gọi là tiểu tham. Nghi thức cũng linh hoạt, tức có thể căn cứ theo lễ tiết của thế tục mà hành sự được đời gọi là gia giáo đấy, mà trong trường hộp này thì không đánh chuông bãi bỏ buổi vãn tham, bởi dù sao cũng đã có cử hành buổi tham mà!

BUỔI TIỂU THAM

Buổi tiểu tham xưa kia không có cử hành tại nơi chốn nhất định mà cứ xét xem đại chúng nhiều hay ít mà cử hành tại tẩm đường thất phương trượng, hoặc tại pháp đường. Đến ngày lễ sau bữa trưa, thị giả bẩm báo trụ trì rằng: “Tối nay có buổi tiểu tham”, lệnh hành giả khách đầu thông báo cho đại chúng, treo bài hiệu Tiểu tham. Đến xế chiều không đánh chuông bãi vãn tham mà đợi đến lúc sau khi chuông báo hoàng hôn đánh lên, hành giả bẩm báo với trụ trì, đánh một hồi trống, tập họp đại chúng. Lưỡng tự về chỗ đứng của mình, trụ trì lên pháp tòa (giống như ở buổi lễ thượng đường các ngày ngũ tham), cử dương đề cương ách yếu của Phật pháp mà giảng giải ra, cùng nêu lên các sự tự tạ, tất cả đều được trình bày ủy khúc tường tận, sau cùng cử một tắc công án của Thiền tông mà kết thúc buổi lễ. Như gặp bốn ngày lễ lớn chốn tùng lâm là kiết hạ, giải hạ, đông chí, và tết Nguyên Đán thì trụ trì có thể nói với đầu thủ thay mình thuyết pháp cho đại chúng. Hoặc khi thuyết giảng đến lễ nghi, điều gì nên cử hành, điều gì nên miễn trừ thì phải trình bày tường lược đắc thể để đại chúng thông hiểu rành rõ. Khi trụ trì rời tòa, hành giả khách đầu cao giọng tuyên bố: “Phương trượng Hòa thượng thỉnh mời Tây đường, lưỡng tự (ban), đơn liêu, kỳ cựu, mông đường, thị giả, Thiền khách hãy đến tẩm đường thất phương trượng để đãi thang thủy!”. Việc này do khố ty cụ bị thang thủy và bánh trái đưa lên thất phương trượng.

Khi xưa, thiền sư Phần Dương Thiện Chiêu trụ ở viện Thái Tử tại Phần Dương, nhân vì thời tiết ở đất Phần quá rét cho nên bãi bỏ dạ tham. Có vị tỷ-kheo Ấn Độ (dị tỷ-kheo, dị vực tỷ-kheo) chống gậy đến nói với sư rằng: “Trong hội của sư có sáu vị đại sĩ, sao lại chẳng thuyết pháp?”, nói xong bay lên không đi mất. Sư mật ký bài kệ:

Ánh gậy vàng Hồ tăng,

Vì pháp đến Phần Dương,

Sáu người thành đại khí,

Khuyên mời pháp cử dương.

Lúc bấy giờ, thiền sư Thạch Sương Sở Viên giữ chức thượng thủ ở trong hội, Sở Viên tức là thiền sư Từ Minh. Sau Sở Viên trụ Thạch Sương, mỗi bữa sau khi độ trai xong sư thường dạo chơi núi. Lúc ấy, thiền sư Dương Kỳ Phương Hội làm giám tự, canh chừng lúc sư đi chơi núi liền đánh trống tập họp đại chúng. Từ Minh quay về nổi giận quở trách rằng “Chiều tối mà thăng đường, từ trước đến giờ làm gì có qui củ này?”, Hội từ tốn đáp: “Buổi vãn tham của Phần Dương sao mà cho là trái qui củ được!”. Từ Minh gật đầu đồng ý.

LỄ THẮP HƯƠNG

Mỗi năm trước khi kiết hạ an cư, những người mới đến chùa vừa được qui tăng đường không bao lâu suy cử một người rành rẽ lễ nghi làm tham đầu thương lượng đầy đủ với duy-na xong thì dẫn chúng cùng đến thị ty bẩm bạch rằng: “Các anh em mới được ghi tên ở lại chùa chúng con, muốn cầu xin Hòa thượng phương trượng cử hành lễ cáo hương, vì chúng con mà thuyết pháp. Xin cảm phiền quí thị giả đây trình báo giùm!”. Thị ty đáp rằng: “Xin chờ cho mỗ đây bẩm báo lại với trụ trì rồi sau đó mới hồi đáp với quí vị!”. Như trụ trì đồng ý chấp thuận thì sẽ lệnh cho đường ty ra bản đồ Cáo hương (hình thức sẽ trình bày sau), lượng định xem chúng đông hay ít, sắp thành mấy hàng, phân ra hai mé Đông- Tây, mặt nhìn về phía pháp tòa mà đứng, sắp hàng trước sau là y theo giới lạp cao thấp mà định vị trí. Mọi người trước hết phải tề tựu mà diễn tập nghi thức cho thành thục, hành giả đường ty quyên tiền mỗi người để làm chi phí mua nhang lớn nhỏ ba ốp và giấy để vẽ bản đồ, giao cho tham đầu cất giữ. Đến ngày đó, thị giả bảo hành giả khách đầu tại tẩm đường hoặc tại pháp đường bài trí bình phong và bàn ghế. Cần phải bày biện ba cái bàn đặt lư hương, ba đôi đài cắm đèn cầy đặt cách khoảng thành hàng trước bàn lư hương, bên ngoài trải một chiếc chiếu để quỳ lạy. Hành giả đường ty nhất nhất tuần tự thông báo cho đại chúng biết và treo tấm bài Cáo hương, thị giả dự bị đưa ra một tấm bảng nhỏ dán lên cột pháp đường viết: “Phụng mạng từ chỉ của Hòa thượng đường đầu, các bậc danh đức, Tây đường và thủ tọa đều miễn cáo hương. Thị ty mỗ cẩn báo bẩm bạch!”. Đến ngày cử hành lễ, dùng cháo sáng xong, các liêu đều đánh vân bản ba tiếng, đại chúng tập họp y theo vị trí trong bản đồ mà đứng, mỗi người đều cụ bị hộp hương nhỏ và tọa cụ. Tham đầu cùng duy-na và thị giả cùng vào mời thỉnh trụ trì ra, tham đầu quay về vị trí cũ của mình, cùng mọi người vái chào vấn an rồi bước đến bẩm bạch: “Kính cẩn thỉnh Hòa thượng phu tọa (tức ngồi xếp bằng lên pháp tòa)!”. Trụ trì ngồi vào pháp tòa, phó tham đầu lấy một cây hương to đưa cho tham đầu, rồi cùng với (đại) chúng lần nữa hướng về trụ trì vái chào vấn an rồi thắp hương, mọi người đều trải tọa cụ giập đầu đại triển ba lạy. Lễ bái xong, thâu cuốn tọa cụ rồi lại cùng vái chào vấn an một lần nữa. Tham đầu tiến lên đứng bên cạnh lư hương vái chào vấn an rồi bẩm bạch: “Chúng con đây vì sống chết là chuyện lớn, vô thường chóng vánh, cúi mong Hòa thượng khai thị nhân duyên (công án)!”. Trụ trì nêu ra ba tắc công án trong chốn Thiền lâm để khai thị. Tham đầu nương theo ba tắc công án đó mà biểu lộ kiến giải của mình, xong quay về vị trí cũ vái chào vấn an, cắm một cây hương rồi lại cùng chúng tựu lại vị trí, chấp tay (các ngón đan nhau) mà đứng. Hai hàng Đông- Tây đều có ba người bước ra khổi ban, người thứ nhất và người thứ nhì bên mé Đông đi qua trước lư hương phía Đông, còn người thứ ba thì đi đến trước lư hương chính giữa. Người thứ nhất và người thứ nhì bên mé Tây đi qua trước lư hương phía Tây, còn người thứ ba thì đi đến trước lư hương chính giữa. Cả hai người đứng trước lư hương này thắp hương, cùng nhau vái chào vấn an, đoạn ba người của mé Đông đi qua bên Đông, ba người của mé Tây đi qua bên Tây, cứ theo như thứ tự trước đó mà tiến lên, từ từ đi đến hàng đội của mình, nối đuôi theo hàng đội mà đứng. Kế đó ba người một tổ tiếp theo của mỗi hàng Đông-Tây lại giống như tổ ba người thứ nhất trước đó, xoa tay bước ra khổi ban, chấp tay vái chào nhau như hai người của tổ trước đã làm rồi quay về vị trí. Đợi cho mọi người thắp hương xong, theo thứ tự mọi người quay về vị trí cũ của mình. Tham đầu hướng về trụ trì lạy ba lạy mà không cuốn thâu tọa cụ lại, bước tới trước bẩm bạch: “Chúng con đây thừa mong Hòa thượng từ bi, toàn tâm chỉ dạy, trong lòng thật không khỏi vô cùng cảm kích”. Kế lại quay về vị trí cũ, cùng chúng lạy ba lạy, đoạn bước tới trước nói: “Hôm nay thời lệnh thật là tốt đẹp, kính chúc Hòa thượng đường đầu tôn thể sinh hoạt bình thường, đa phước!”, rồi lại quay về vị trí cũ cùng chúng lạy ba lạy thâu cuốn tọa cụ lại. Hành giả gióng năm tiếng trống, lưỡng tự chuyển người theo thứ tự đứng trước pháp tòa. Tham đầu đứng dưới hàng Tây tự, các người dâng hương cùng chuyển thân, mé bên Đông chuyển qua bên Tây, mé bên Tây chuyển qua bên Đông, y vị trí đứng đối diện nhau. Các vị cần cựu, mông đường cùng với các người đã dâng hương

rồi đứng phía sau. Buổi phổ thuyết xong, mọi người cùng hướng về pháp tòa đứng. Tham đầu thắp hương cùng chúng nhân hướng về trụ trì lạy ba lạy. Như trụ trì miễn lễ thì mọi người cùng giập tọa cụ xuống nền trí ý lễ bái một lạy, tiến lên nói: “Chúng con đây duyên đời trước khánh hạnh nên mới được Hòa thượng từ bi dạy bảo, trong lòng không khỏi vô cùng cảm kích”. Nói đoạn, cả nhóm cùng vái chào vấn an nhau mà lui ra. Tham đầu lãnh đạo chúng đến phía Tây (phải) pháp đường cảm tạ duy- na và thị giả, cùng giập tọa cụ xuống nền trí ý lễ bái một lạy.

Kế đó, đại chúng cảm tạ tham đầu, cùng giập tọa cụ xuống nền trí ý lạy một lạy. Thị giả thỉnh khách dự bị y theo giới lạp cao thấp, cụ bị thư trạng mời trà, bày trí bàn có trải nắp vải đặt bút nghiên trên đó. Lễ cáo hương dứt, đến bên trái pháp đường thỉnh mời mọi người uống trà, kế kiểm danh, có mời thủ tọa quang lâm bầu bạn. Sau buổi độ trai thì gióng trống, chúng quay về vị trí đứng. Hai thị giả hành lễ (cũng giống như ở các lễ đãi trà thông thường). Tối đó, trụ trì mời tham đầu, duy-na và thị giả dùng cơm tối, có mời thủ tọa quang lâm bầu bạn. Sáng sớm hôm sau, thỉnh mời tham đầu dùng trà. Tại buổi bán trai (điểm tâm giữa cháo sáng và trai trưa), mời tham đầu, duy-na và thị giả điểm tâm. Nếu tất cả đại chúng đều dự lễ cáo hương thì thủ tọa làm tham đầu, trong trường hộp này thì khi đãi trà, tham đầu phải có mời Tây đường quang lâm bầu bạn. Sau khi tân trụ trì nhập viện, nhân sự ổn định rồi, khố ty cụ bị hương, thủ tọa suất lãnh đại chúng cả chùa, khẩn thỉnh tân trụ trì cáo hương. Sau đó mới cử hành lễ tân nhiệm trụ trì lần đầu tiên thượng đường là khai đường (theo qui định xưa thì tăng nhân nào chưa từng tham gia lễ cáo hương thì không được vào thất phương trượng để tham học, hỏi đạo).

PHỔ THUYẾT

Phổ thuyết là Trụ trì vì chúng thuyết pháp, nhưng tình huống đưa đến phổ thuyết có nhiều loại). Có loại do đại chúng cáo hương mà thỉnh cầu trụ trì phổ thuyết, trong trường hộp này thì trụ trì căn cứ vào tòa vị do lễ cáo hương bày trí mà ngồi. Có loại là riêng do thí chủ (đàn việt) đặc biệt thỉnh cầu mà phổ thuyết, cũng có loại trụ trì tự động vì chúng khai thị Phật lý mà phổ thuyết. Trong trường hộp này thì trụ trì lên pháp tòa. Phàm gặp kỳ phổ thuyết thì thị giả bảo hành giả khách đầu treo bảng phổ thuyết để thông báo cho đại chúng rồi bố trí hoàn hảo tẩm đường tại thất phương trượng hay pháp đường. Sau buổi cháo sáng, hành giả bẩm báo trụ trì đoạn từ từ đánh năm tiếng trống. Thị giả ra trước đợi cho đại chúng tề tựu đông đủ rồi bèn vào mời trụ trì bước ra thăng tòa ngồi vào vị trí đã định mà thuyết pháp, lễ tiết giống như tiểu tham.

VÀO THẤT

Vào thất là tình huống thầy khám biện kiểm tra, đốc thúc học đồ, đối với chỗ chưa lưu ý đến nơi đến chốn thì hạch sách hỏi han, đối với chỗ kiêu ngạo hiếu thắng thì đánh động, đả phá. Đối với chỗ phiến diện chấp trước nghiêng lệch thì phê phán, chẳng khác nào nung quặng nấu vàng trong lò luyện kim khiến chì sắt cùng các tạp chất khác bị loại bỏ hết, như thợ ngọc mài ngọc, loại bỏ ngay cả các loại đá đẹp quí tương tự ngọc. Bất kể là ngày đêm, chẳng chọn nơi chốn, tùy lúc- tùy nơi đều có thể tiến hành, cho nên ngày xưa tăng nhân lúc nào cũng mang hộp hương nhỏ theo mình để hễ nghe ba tiếng trống đánh liền chạy a vào thất. (Ngày nay qui định lấy các ngày ba (3, 13, 23) và tám (8, 18, 28) làm ngày nhập thất. Đây chỉ là cách làm hình thức cho có như xưa vậy). Gặp ngày khai thất, tức trụ trì muốn dạy dỗ học đồ, trước giờ ăn cháo sáng, thị giả bảo hành giả khách đầu treo bảng báo Nhập thất tại tăng đường và trước các liêu. Tại tẩm đường thất phương trượng đặt tượng tổ sư Đạt-ma, trước tượng bày biện hương và đèn cầy cùng trải chiếu để quì lạy. Trong thất đốt đuốc thắp hương, chiếu để lạy trải bên mé trái. Dùng cháo xong, đại chúng rời tăng đường. Hành giả từ từ đánh ba tiếng trống, trụ trì đến trước tượng tổ sư Đạt-ma đốt hương rồi cùng thị giả lạy tượng ba lạy, rồi quay về tẩm đường ngồi trang nghiêm. Thị giả tiến đến trước trụ trì vái chào vấn an rồi đứng hầu kề bên trái, hành giả tiến đến trước trụ trì vái chào vấn an rồi đứng hầu bên phải. Đầu thủ suất lãnh chúng đến trước tượng Đạt-ma cùng đốt hương lạy ba lạy, liên tiếp nối nhau đến trước tẩm đường thất phương trượng. Những người đến sau cũng theo thứ tự đốt hương, trải tọa cụ giập đầu lễ bái, nối tiếp đứng sắp hàng có trật tự trước sau, không được chen lấn lên phía trước làm rối loạn trật tự. Thị giả đốt hương vái chào vấn an, bước ra vái chào mời thủ tọa vào. Học đồ khi qua cửa phải bỏ chân trái vào trước và dùng tay trái thắp hương, tiến tới trước vái chào vấn an, đến mé phải ghế Thiền mà đứng nghe trụ trì nêu dẫn cổ tắc công án bắt đầu dạy dỗ. Học đồ nghe trụ trì khai thị có thể phát biểu kiến giải của mình mà không cũng được, tùy ý định liệu. Nghe khai thị xong chuyển người đi qua bên trái ghế Thiền vái chào vấn an rồi lui bước, giập tọa cụ xuống nền trí ý lạy một lạy bái tạ, bỏ chân trái trước bước qua cửa mà ra ngoài, vái chào mời người kế vào. Một ra một vào phải hướng vào nhau vái chào vấn an, liên tiếp không dứt. Nếu thủ tọa vốn là Tây đường của chùa lớn hoặc là bậc danh đức cao tăng vào thất đốt hương thì trụ trì phải xuống pháp tòa vái chào đưa ra. Gặp trường hộp trụ trì thăng tòa thuyết giảng Thiền lý cho đại chúng thì miễn đón đưa thủ tọa thân phận thuộc hai bậc vừa nêu trên (đây cũng là lễ tiết mà thời gần đây vẫn còn rập theo, nếu là cao tăng đức trọng thời xưa, ngay khi đang thuyết pháp cho đại chúng thì ngay cả Phật hay tổ đến nghe, họ cũng vẫn ngồi yên ở pháp tòa mà giảng nói để duy trì bảo biện sự trang nghiêm thần Thánh của buổi thuyết pháp, chớ há nào lại bận tâm đến lễ nghi của thế tục. Các bậc sư gia nghĩ thế nào về chuyện này đây?). Chỉ có thủ tọa hậu đường suất lãnh đại chúng chủ trì việc nhập thất mà thôi. Ngay những hành giả du phương mới đến chùa chưa được ghi tên cũng nên nhập thất, thị giả ở sau chúng nhập thất nghe thuyết giảng xong xuôi, thắp hương, trải tọa cụ giập đầu lạy ba lạy đại lễ. Hành giả thắp hương lạy trụ trì ba lạy, rồi lại quay ra đến trước tượng tổ sư Đạt-ma, trải tọa cụ giập đầu cử hành đại lễ lạy ba lạy rồi lui ra.

NIỆM TỤNG

Cổ Thanh qui định rằng vào các ngày mùng 3, 13, 23, mùng 8, 18, 28 là ngày niệm tụng. Thời nay chỉ lấy các ngày mùng 8, 18, 28 làm ba ngày niệm tụng. Đường ty y theo thứ tự giới lạp của tăng chúng mà lên bản đồ (hình thức bản đồ chép phía sau). Đến ngày, trước tăng đường quét rửa tươm tất. Sau giờ ngọ, hành giả đường ty thông báo với đại chúng, treo bảng Niệm tụng. Đến trước buổi vãn tham, kiểm điểm hoàn bị hương và đèn cầy tại tăng đường và các điện đường khác, rồi bẩm báo với trụ trì và lưỡng tự. Trước hết đánh vân bản tại thất phương trượng và tại chiếu đường, kế đến tuần rảo các hành lang, đánh vân bản. Trụ trì bước ra, từ từ đánh 3 tiếng đại bản. Đại chúng tụ tập y theo vị trí vẽ trong bản đồ mà lập định, các tăng hành cước mới đến chưa được ghi tên đứng bên trái thị giả. Thị giả đi theo trụ trì đến Tổ đường, Thổ địa đường, đại điện, đốt hương lễ bái, gióng đại hồng chung. Lưỡng tự trước đó tập trung ngoài tăng đường chờ cho đại bản đánh lên mới đến tại vị trí ghi trong bản đồ. Trụ trì vào tăng đường, hành giả cúng đầu gióng bảy tiếng chuông trước tăng đường. Trước tượng Thánh tăng đốt hương. Thị giả bưng hộp hương, thị giả thư trạng trực tiếp quay về vị trí của mình. Thị giả thỉnh khách đến Tây đường vái chào vấn an rồi tuần rảo kiểm điểm qua xem có gì thiếu sót, sai trật, kế đó thỉnh mời Đông tự vào vị trí. Trụ trì bước ra ngoài tăng đường đứng ngay chính giữa đốt hương, thị giả đốt hương theo chân trụ trì quay về vị trí. Duy-na trước hết rời khổi vị trí đến ngay cửa, đối diện với trụ trì mà đứng rồi chấp tay niệm tụng. Tại lễ mùng 8, 18 thì bẩm bạch: “Gió Hoàng gia mãi thổi, đạo Hoàng đế lan xa, ngày Phật tăng sáng rỡ,

xe pháp thường quay, Già- lam, Thổ địa, Hộ pháp hộ trì người. Thí chủ mười phương tăng phước, tăng huệ. Vì những duyên do nêu trên, niệm pháp thân thanh tịnh Tỳ-lô-giá-na Phật v.v…”. Đại chúng niệm thầm, mỗi một tôn hiệu cuối câu, đường tiền đánh chuông nhè nhẹ ứng hòa theo, niệm dứt rồi lại đánh thêm một tiếng chuông nữa. Riêng ngày 28 thì lời bẩm bạch là: “Kính bạch đại chúng! Đại sư Như Lai nhập Bát Niết Bàn tạ thế đến năm đầu niên hiệu Chí Nguyên nhà Đại Nguyên ta đã 2.284 năm. Mỗi một ngày qua là chúng ta đã giảm sanh mạng một ngày, chẳng khác nào con cá thiếu nước, có gì mà vui chứ? Mọi người chúng ta cần phải tinh tấn chuyên cần phấn đấu tu thiện trừ ác gấp gáp như lửa đang cháy trên đầu. Mỗi khi tưởng nghĩ đến vô thường chóng vánh thì chớ nên chây lười buông lung! Thần già-lam, thần Thổ địa, thần Hộ pháp sẽ hộ trì cho mọi người; thí chủ mười phương tăng phước tăng huệ. Vì những duyên do trên, xin hãy cùng niệm tôn hiệu pháp thân thanh tịnh 10 lần! v.v…”, nói xong quay về vị trí cũ. Trụ trì vào tăng đường, tiếp đó thủ tọa tiền đường vào và kế đó nữa là các bậc danh đức cao tăng và Tây đường vào tăng đường, trở người trước vị trí (bản đầu) tượng Thánh tăng mà đứng. Đầu thủ suất lãnh chúng, ba người một nhóm đến trước tượng Thánh tăng vái chào vấn an, chuyển thân đến trước trụ trì vái chào vấn an, chấp tay tuần rảo tăng đường thuận theo hướng quay của vai trái, rồi y theo bản đồ vị trí mà đứng. Tăng hành cước mới đến chưa được quải đáp và thị giả theo sau chúng mà vào, , chỉ tuần rảo tăng đường nửa vòng đến sau tượng Thánh tăng, thị giả mặt hướng về cửa sau mà đứng. Các tăng hành cước mới đến chưa được ghi tên thì mặt hướng về hành giả mà đứng. Kế đó nữa là tri sự vào tăng đường đến trước tượng Thánh tăng vái chào vấn an, chuyển người tới trước trụ trì vái chào vấn an, chấp tay tuần rảo tăng đường mà ra. Các tăng mới đến chưa được ghi tên, tiếp bước theo sau thị giả mà ra. Hành giả đường ty đến trước thủ tọa bẩm báo truyền lời: Bãi tham rồi từ sau tượng Thánh tăng chuyển mình xuất đường. Hành giả cúng đầu đánh ba tiếng chuông trước tăng đường, mọi người cùng chấp tay chào nhau trí kính rồi rời hẳn vị trí mà rã hàng. Trụ trì bước ra khổi tăng đường, lưỡng tự cũng ra theo đến trước tăng đường cảm tạ ơn trụ trì đãi thang quả, trụ trì ngăn lại miễn lễ. Ngày 28 dự đám thang thủy, tẩm đường đánh vân bản, thị giả đốt hương, hành lễ như nghi thức thông thường, dùng thang thủy xong thì thỉnh mời dùng cơm tối. Theo phép xưa thì cả ba ngày mùng 8, 18, 28 đều có đãi thang thủy, nhưng riêng hai ngày mùng 8 và 18 thì không có mời dùng cơm tối. Trong các ngày niệm tụng này thì buổi xế chiều không có tọa tham, nhưng đến tối thì tham Thiền như thường lệ.

TUẦN LIÊU

Theo Cổ thanh qui thì trước khi trụ trì tuần liêu, trước tăng đường treo bảng Tuần liêu thông báo đại chúng. Các liêu bày trí tòa vị, cụ bị hương và thang thủy, chờ khi trụ trì đến, đánh vân bản tập họp chúng đứng sắp hàng ngoài cửa liêu tiếp đón vái chào vấn an rồi nối bước theo trụ trì vào liêu. Liêu chủ đốt hương cùng đại chúng vái chào vấn an trụ trì, rồi trở về vị trí của mình ngồi. Trụ trì thăm hỏi an ủi các tăng nhân già yếu bệnh hoạn, kiểm điểm xem trong liêu thiếu thốn vật gì, có điều chi khó khăn, sau đó hỏi han chuyện ấm lạnh rồi đứng dậy. Lúc đó, tăng chúng phải trải tọa cụ giập đầu lạy ba lạy tạ ơn trụ trì quang lâm thăm nom. Nếu trụ trì miễn lễ thì phải vái chào vấn an, rồi đưa tiễn ngài ra khổi liêu. Gặp ngày mùng một hay rằm thì căn cứ theo qui lệ mà tuần hành, nhưng không treo bảng báo tuần liêu. Nay chỉ lấy bốn ngày lễ tiết lớn báo ơn Phật làm ngày tuần liêu, còn những ngày khác thì không cử hành nghi thức này. Người ở cương vị trụ trì nên phục hồi qui lệ cũ, nên thường xuyên cử hành nghi thức này.

Luật Ma-ha- tăng-kỳ ghi: “Thế Tôn vì năm sự nên cứ năm ngày tuần tra tăng phòng một lần. Một là lo đệ tử chấp trước hữu vi sự, hai là lo đệ tử chấp trước lý luận thế tục, ba là lo đệ tử ham ngủ, bốn là phải thăm nom chăm sóc tăng bệnh hoạn, năm là khiến tỉ-kheo trẻ tuổi quán uy nghi của Phật mà sanh hoan hỉ”.

XỬ PHẠT TĂNG CHÚNG PHẠM THANH QUI

Trong Đại tạng kinh chép: “Quan Hàn Lâm học sĩ nhà Tống là Dương Ức, suy cứu bổn ý chế định Thanh Qui của thiền sư Bách Trượng Hoài Hải, nói tóm lược: ‘Có kẻ giả hiệu trộm hình (cạo đầu, mặc pháp y) trà trộn trong đại chúng thanh tịnh, giả mạo tăng nhân, làm chuyện huyên náo ồn ào quấy nhiễu thì phải báo duy-na kiểm cử cho tháo gỡ y bát mà kẻ đó đã treo móc (quải đáp) tại tăng liêu, đuổi ra khổi tự viện, hầu an định thuần khiết cho chúng tăng thanh tịnh. Hoặc có kẻ vi phạm giới qui thì dùng gậy đánh phạt, tập họp đại chúng công khai đốt bỏ y bát và đạo cụ đuổi ra khổi chùa qua cửa hông, biểu thị sỉ nhục’”.

Xét kỹ điều chế định của Thanh qui trên có bốn lợi ích:

1. Thứ nhất không làm ô uế đại chúng thanh tịnh, khiết bạch.

2. Thứ hai không phá hủy hình tượng tăng lữ, duy trì chế độ của Phật.

3. Thứ ba không quấy nhiễu cửa công, giảm bớt làm phiền hà quan ty.

4. Thứ tư Giữ kín chuyện xấu trong chùa, không để tiết lộ ra ngoài, duy hộ danh dự của Tông môn.

Nhưng khi ngài Bách Trượng sáng lập qui chế đã chiết trung ngũ thiên, thất tụ của luật Phật, các giới điều nhằm trở thành khuôn phép của cả thiên hạ (tam giới quỹ phạm). Riêng việc trừng trị mạnh tay như đuổi ra khổi chùa đối với các vi phạm luật nặng nề, cùng với cho có cơ hội phản tỉnh đối với các vi phạm nhẹ luật lệ đều nhằm mục đích chỉnh túc đại chúng tuân thủ kỷ luật nghiêm minh của nhà chùa. Do đó trải qua bao đời Thánh hoàng đế quốc triều nhà Đại Nguyên ta đều giới sức tăng đồ phải nghiêm cách tuân thủ Phật chế, tuy nhiên ngoại trừ những tội nặng như xâm phạm hình luật tất do các cơ quan hữu ty xử tội, còn phàm những xung đột trong nội bộ tăng nhân hay các xâm phạm giới cấm thì đều căn cứ vào Thanh qui mà gia dĩ làm luật trị tội, như tranh chấp xung đột, phẩm hạnh xấu xa, hành vi buông tuồng, xà xẻo của cải thường trụ nhà chùa hoặc trộm cắp tài vật của tư nhân thì đều do nội bộ tu viện căn cứ vào qui chế luật lệ của nhà chùa mà đem giải quyết dạy bảo nhau, không cho chuyện xấu truyền ra ngoài. Bởi dù là con nhà họ Thích, nhưng lấy thế tục mà đối chiếu thì cũng là người đồng tông thân thuộc, chính nên tuân thủ Tổ luật, tùy hành động vi phạm mà trừng trị, như nếu tội nặng thì tập họp đại chúng toàn chùa luận tội dùng gậy đánh hay đuổi ra khổi tự viện, còn nếu tội nhẹ thì phạt nạp tiền, nạp hương, nạp dầu rồi niêm yết lên bảng báo cáo cùng mọi người. Còn như sự việc liên quan đến tiền vật thì trách tội buộc phải bồi thường, chủ yếu sao cho việc xử sự phải công bình hộp lý, nhằm giúp kẻ phạm tội biết tự trách mình mà hối lỗi. Chương Thằng tụng của Cổ thanh qui chép: “Trộm cắp tài vật, cãi vã cáu ó đánh nhau, tham rượu hiếu sắc, làm điếm nhục tăng chúng. Những hành động bại hoại này phải lập tức đuổi khổi tăng đoàn, bởi nếu dung dưỡng cho ở lại thì sẽ thành ra bại hoại cả đại chúng”. Lại ghi: “Nếu phạm trọng tội phải bị thu y bát lại đốt bỏ thì phải nên họp đại chúng cả chùa mà chấp hành, dùng gậy mây mà đánh phạt, dụng ý là tạm làm cho kẻ phạm tội biết hổ thẹn, rồi đuổi ra khổi chùa bằng cửa hông”. Lúc thiền sư Đại Huệ Tông Cảo đời Nam Tống làm trụ trì chùa Dục Vương ở Ninh Ba, ra bảng yết thị tại đường ty rằng: “Tăng lữ gấu gó nhau là biểu hiện chấp mê và ngu dại, và loại này không phải là tăng nhân tốt. Bất kể là ông nào phải hay quấy, (hễ cáu ó nhau) là đều bị đuổi ra khổi tự viện”. Hoặc có người lý luận rằng: “Cái đúng vì lẽ phải mà vẫn bị đuổi ra khổi chùa thì e là chưa đúng”. (Không phải vậy), bởi vì đã là tăng nhân thì phải lấy nhẫn nhục làm đầu. Nếu chấp vào có lý mà cãi vã thì đó là biểu

hiện của vô minh, cùng đuổi ra khổi chùa một lượt là ngăn chặn chuyện cãi vã lúc chưa phát sinh vậy.

DẠY DỖ ĐỒNG HÀNH (CHÚ ĐIỆU)

Phàm gặp mùng một, ngày rằm, nói chung là các ngày ngũ tham (mùng 1, mùng 5, rằm, 20, 25), sau khi kết thúc nghi thức thượng đường, hành giả tham đầu bảo hành giả hát thực (hành giả đứng báo tên người ăn) thông báo các bộ môn cục vụ, tại trước liêu hành giả (hành đường) treo bài hiệu cáo thị huấn đồng hành thông báo đại chúng. Vào lúc chuông báo hoàng hôn đánh lên, đánh 3 tiếng vân bản trước hành đường (liêu hành giả) để tập họp đại chúng. Các hành giả, trước hết lên điện Phật, kế đến Tổ đường, tăng đường, liêu tiền đường, cao giọng báo: “Mỗ đây đến chờ lệnh!”, rồi mới lên tẩm đường thất phương trượng sắp hàng. Tham đầu vào thất phương trượng thỉnh mời trụ trì ra tẩm đường tựu tòa. Tham đầu tiến tới trước thắp hương, quay người lui về vị trí của mình, từ từ cao giọng nói: “Tham!” (có nghĩa là “Mỗ đây chờ đợi lệnh ở chỗ này”). Mọi người đồng loạt thấp giọng nói: “Xin hỏi” (tức xin hỏi có ít bệnh hoạn, ít phiền não, sinh hoạt khỏe khoắn không?), rồi đồng loạt hướng về trụ trì lạy ba lạy, cúi đầu nín thở, toàn tâm trí ý vâng nghe lời dạy dỗ xong, lại lạy ba lạy lần nữa rồi tham đầu cao giọng: “Tạm biệt!” (Trân trọng!). Mọi người thấp giọng nói nhỏ hòa theo, vái chào vấn an rồi lui ra. Nếu trụ trì vào lúc đó bận việc gì riêng thì hành giả hát thực (đồng hành) sẽ truyền lời, cao giọng nói: “Phụng từ chỉ của phương trượng miễn tham”. Mọi người nói: “Xin hỏi”, hành giả hát thực lại cao giọng nói: “Bãi bỏ tham vấn”. Mọi người nói: “Tạm biệt!”, rồi cùng vái chào vấn an mà lui ra.

VÌ HÀNH GIẢ PHỔ THUYẾT

Tham đầu trước hết đến thị ty thắp hương lễ bái, bẩm báo thị giả phúc báo trụ trì (thỉnh cầu vì hành giả mà thuyết pháp). Nếu như trụ trì đáp ứng lời thỉnh cầu thì tham đầu đánh vân bản trước hành đường (liêu xá của hành giả còn gọi là tuyển tăng đường) tập họp chúng, đứng sắp hàng chờ đợi tại tẩm đường. Tham đầu theo sau thị giả vào thất mời thỉnh trụ trì bước ra ngồi vào tòa vị định trước, tham đầu cùng chúng vái chào vấn an trụ trì rồi tiến lên phía trước thắp hương, đoạn quay người lui về vị trí của mình, từ từ nói: “Xin hỏi (có ít bệnh hoạn, phiền não, sinh hoạt khỏe khoắn không?)”. Chúng thấp giọng nói họa theo, rồi đồng loạt hướng về trụ trì lạy 9 lạy. Tham đầu tiến tới trước nói: “Bọn con bấy lâu những mong được Hòa thượng chỉ dạy, cúi mong ngài từ bi khai thị Phật pháp, chỉ thị công án!”. Nói đoạn, quay người vái chào vấn an rồi lui ra. Qua ngày hôm sau, hành đường treo bài hiệu “Phổ thuyết” thông báo đại chúng. Đoạn bày trí tòa vị, bày biện bàn đặt lư hương và các đài đèn cầy. Tham đầu báo chúng thỉnh mời lưỡng tự đến bày ban thị lập. Phó tham đầu suất lãnh chúng đứng ngoài cửa nghinh đón lưỡng tự vào hành đường, tham đầu và đường chủ hành đường đến thị ty cùng thỉnh mời trụ trì đến liêu xá hành giả (hành đường), chúng nghinh tiếp vào tòa định trước ngồi. Thị giả vái chào vấn an rồi đứng hầu bên cạnh trụ trì, tiếp đó chấp sự tăng lưỡng tự tiến tới trước vái chào vấn an xong, thị giả đốt hương thỉnh cầu trụ trì thuyết pháp. Tham đầu suất lãnh chúng đứng như hàng chim nhạn thắp hương cao giọng nói: “Tham! (Bọn mỗ chờ lệnh nơi đây!”, xong lạy ba lạy rồi lui ra chia nhau đứng sắp hàng như chim nhạn bay phía sau Đông – Tây lưỡng tự, cung cẩn nghe khai thị đạo pháp. Trụ trì thuyết giảng xong rồi, tham đầu suất lãnh hành giả đứng sắp hàng như lúc đầu, lạy 3 lạy rồi ra bên ngoài cửa phía phải mà đứng, vái chào tiễn đưa trụ trì và lưỡng tự, sau đó đi theo đến tẩm đường thắp một cây hương lớn, lạy 9 lạy mà lui ra. Kế đó cùng đến thị ty, thắp hương lạy ba lạy. Tham đầu và phó tham đầu cùng đến trước chấp sự tăng lưỡng tự, nhất nhất bái tạ.

NHẬN PHÁP Y

Chuyên sứ đưa pháp y tới, trước hết gặp tri sự để thông báo lại ý rồi cùng đến thị ty để phiền nơi này bẩm báo lại với phương trượng. Trụ trì hoặc giả tiếp kiến liền lúc đó, hoặc giả sắp xếp vào sáng mai mới tiếp kiến. Trước buổi tiếp kiến, thị giả bảo hành giả khách đầu thông báo mời lưỡng tự đến. Chuyên sứ theo lễ thường thắp hương ra mắt, (riêng nhà chùa thì dự bị chiêu đãi trà cho chuyên sứ). Chuyên sứ cảm tạ đãi trà xong, lại thắp hương, trải tọa cụ giập đầu lạy ba lạy hai lần. Nếu trụ trì miễn lễ thì giập tọa cụ xuống nền trí ý lạy 1 lạy bẩm bạch rằng: “Sư phụ của con là Hòa thượng mỗ (thỉnh ngài kế thừa đại pháp), có pháp y là vật làm tin, vì việc ấy mà xin dâng lên”. Nói đoạn, lấy mâm gỗ có phủ nắp vải đặt pháp y tín vật lên đó mà trình dâng. Sau đó mới vào tòa, có lưỡng tự quang lâm bầu bạn. Dùng trà xong, kế tiếp đãi thang thủy. Dùng thang thủy xong, lưỡng tự đưa chuyên sứ đến chỗ nghỉ ngơi. Thị giả dẫn chuyên sứ tuần rảo các liêu một vòng để ra mắt mọi người.

Qua ngày khác thượng đường, bên trái pháp tòa riêng bày trí một tòa vị của trụ trì. Chuyên sứ trải tọa cụ giập đầu cử hành đại lễ lạy 3 lạy, bưng mâm có đặt pháp y dâng lên trụ trì. Trụ trì tiếp nhận pháp y xong trịnh trọng ban pháp ngữ, kế đó mặc pháp y vào rồi thăng tòa. Nếu như vị pháp sư mà trụ trì nối tự đã qua đời thì khi nhận pháp y phải bày trí bàn thờ linh ở phía bên phải pháp đường, sau khi trụ trì xuống tòa phải trí tế, còn đại chúng thì niệm tụng kinh, nghi thức giống như ở lễ đưa di thư tới (xin xem nghi thức đưa di thư tới ở phần sau).

TIẾP ĐÓN CHƯ TÔN TÚC

Các bậc tôn túc đến thăm viếng, tất trước hết phải treo bài hiệu Tiếp tôn túc, gióng chuông tập họp đại chúng, ra đứng tận cửa cổng mà nghinh tiếp. Nếu bậc tôn túc nào thích giản dị thì âm thầm vào chùa mà không thông báo trước. Trong trường hộp này, trụ trì phải bày trí đầy đủ hương và đèn cầy để đón tiếp, gióng chuông tại tăng đường trí ý kính trọng. Hành giả khách đầu phải bẩm báo thủ tọa suất lãnh đại chúng thắp hương vái chào vấn an. Xong lễ, chúng tăng lui ra, còn chấp sự tăng lưỡng tự (từ đây xin gọi tắt là lưỡng tự) và chấp sự tăng đã thoái chức hiện trú ngụ tại chùa (từ đây xin gọi tắt là cần cựu) thì ngồi lại bầu bạn. Đốt hương uống trà xong, thị giả mới đến dâng hương lễ bái. Lúc bấy giờ, thị giả, hành giả, bộc tùng và kiệu phu mà tôn túc mang theo mới được đưa đến tham bái. Quản lý nhân sự thất phương trượng và tham đầu suất lãnh các hành giả và nhân bộc cùng kiệu phu mà tôn túc mang theo tuần tự tham bái. Thị giả lại đốt hương dọn thang thủy tiếp đãi. Dùng thang thủy xong, lưỡng tự và cần cựu cùng đưa tiễn tôn túc về phòng khách an nghỉ. Khách đầu bảo chuẩn bị kiệu, trụ trì đích thân hướng dẫn tôn túc tuần rảo các liêu đáp lễ đại chúng. Thị giả thỉnh khách cụ bị thư trạng đến phòng khách nơi tôn túc tạm nghỉ đốt hương thỉnh mời tôn túc dự chiêu đãi thang thủy buổi chiều, bẩm bạch rằng: “Phương trượng bái thỉnh Hòa thượng tối nay đến tẩm đường thất phương trượng dự hiến thang thủy. Cúi mong từ bi giáng trọng!”. Bẩm bạch xong, trình thư trạng thỉnh mời (hình thức trình bày phía sau). Trình xong, khách đầu lại bẩm bạch: “Thỉnh mời Hòa thượng sau khi dùng thang thủy xong đến tòa vị dùng cơm tối!”. Tẩm đường treo đóng màn trướng, bày trí tấm bảng đồ đối chiếu vị trí ngồi, cũng đặc biệt thiết trí vị trí quang lâm bầu bạn. Gióng trống hành lễ, mời ngồi, mời đốt hương, mời dùng thang thủy xong, kế mời dùng cơm tối, nghi thức cũng giống như các lễ thông thường. Khách đầu đến phòng khách của tôn túc mời thỉnh rằng: “Phương trượng mời thỉnh Hòa thượng tối nay dùng thang thủy và trái cây”, rồi cùng thỉnh mời lưỡng tự quang lâm bầu bạn. Dùng thang quả xong, thị giả bẩm báo cùng tôn túc: “Sáng mai trụ trì thăng đường trí tạ Hòa thượng đến thăm”. Qua sáng hôm sau, thỉnh mời dùng thang thủy. Thị giả đốt hương, hành giả vái chào vấn an. Bộc tùng luôn tới lui sẵn sàng chờ sai bảo, trụ trì bầu bạn với tôn túc dùng cháo. Dùng cháo xong, thỉnh mời dùng trà. Thị giả lại bẩm báo việc thượng đường, bên mé phải pháp tòa thiết đặt vị trí của tôn túc, mời điểm tâm giữa buổi cháo sáng và cơm trưa. Nếu như vị tôn túc đến thăm viếng danh vọng đặc biệt cao đại thì thủ tọa và chúng đầu thủ bẩm báo trụ trì, nhờ trụ trì mời thỉnh tôn túc vì chúng thuyết giảng, khai thị pháp yếu. Trước hết trụ trì đến phòng khách nơi tôn túc tạm nghỉ, trần thuật nguyện vọng của tăng chúng. Nếu vị tôn túc đồng ý thì thủ tọa phải cụ bị thư trạng, còn lưỡng tự và đại chúng đều đến chỗ phòng khách nơi tôn túc tạm nghỉ thắp hương bái thỉnh, đồng thời thỉnh cầu trụ trì đảm nhận cương vị dẫn tòa, tức hướng dẫn tôn túc thăng tòa và giới thiệu với đại chúng, đồng thời thông báo đại chúng treo bảng cáo thị thuyết pháp, trước pháp tòa bày trí tòa vị phải trái hai bên. Đến giờ gióng trống, trụ trì bầu bạn tôn túc xuống pháp tòa, cùng đứng trước pháp tòa. Trụ trì trước tiên hướng dẫn tôn túc lên pháp tòa giới thiệu giản lược với đại chúng, cung cách cũng giống như thượng đường thuyết pháp thông thường nêu trên. Thuyết giảng xong xuống tòa, lưỡng tự đến trước bậc tôn túc vái chào vấn an, tôn túc bước đến trước trụ trì vái chào vấn an. Kế đứng tại chính giữa pháp tòa vái chào vấn an tất cả đại chúng rồi bước lên tòa. Thị giả và lưỡng tự rời hàng vái chào vấn an, trụ trì cũng tiến tới trước tôn túc vái chào vấn an. Lại khi tôn túc thuyết pháp xong từ pháp tòa bước xuống, đến trước trụ trì vái chào vấn an, rồi vái chào vấn an toàn thể đại chúng. Trụ trì, lưỡng tự và đại chúng cùng đến phòng khách chỗ tôn túc tạm nghỉ thắp hương bái tạ ơn thuyết pháp. Thị giả thỉnh khách cụ bị thư trạng, thỉnh mời đặc biệt dự khoản đãi. Nhà chùa phải thỉnh mời khoản đãi tiệc và tặng lễ vật. Phương trượng cũng cụ bị hiến tặng lễ vật cá nhân mình cho người có công đóng góp. Nghi thức cử hành lễ cũng giống như lễ đặc biệt chiêu đãi thường khi. Nếu như trụ trì chùa bạn đến thăm viếng mà cương vị tương đương với trụ trì thì nghi thức cử hành lễ có thể châm chước tùy nghi vậy. Nếu khách đến thăm viếng thuộc hàng huynh đệ pháp quyến đồng môn với trụ trì hoặc giả là bậc trưởng thượng thì trước hết cử hành lễ ra mắt trụ trì chùa bạn đến viếng thăm, kế đó đưa đến phòng khách, thỉnh mời khách ngồi nghỉ trong đó, trụ trì thắp hương lễ bái, rồi lại cử hành lễ gặp gỡ của đồng môn quyến thuộc, rồi mời đến ngồi trong thất phương trượng và nên nhường cho khách ngồi ở vị trí trung tâm, đón tiếp – tiễn đưa như lễ trước. Trong lúc hiến thang thủy, thì trụ trì phải đích thân tự hành lễ. Nếu khách cương quyết chối từ thì mới nhờ thị giả hành lễ thay trụ trì. Nếu đệ tử nối pháp của trụ trì bổn tự là trụ trì chùa khác đến chùa có việc hoặc giả cháu pháp (pháp điệt) của trụ trì đến viếng thăm thì phải đích thân đến thất phương trượng yết kiến trụ trì, trụ trì liền ra lệnh đánh chuông tăng đường tập họp chúng, chức sự thỉnh mời trụ trì cư trung tọa, khách hành lễ đệ tử hay cháu pháp ra mắt trụ trì rồi tiếp đó mới cử hành lễ tương kiến theo nghi thức trụ trì chùa bạn đến viếng thăm. Nghi thức tiếp đón và đưa tiễn cũng giống như đón đưa tôn túc bình thường, nhưng phần thết tiệc khoản đãi thang thủy thì không có trình thư trạng thỉnh mời. Thị giả thỉnh khách đốt hương thỉnh mời miệng. Lại cũng tùy theo tuổi lạp cao thấp của khách mà lâm thời tùy nghi quyền biến. (Hình thức thư trạng mời dùng thang thủy, mời khoản đãi tiệc trà, mời thăng tòa như sau đây)

a- Đương nhiệm trụ trì là tỉ-kheo mỗ kính mời mỗ … tối nay đến tẩm đường dự tiệc khoản đãi thang thủy. Cúi mong tôn thể từ bi đoái hoài chấp nhận giáng trọng! Cẩn thư trạng Ngày … tháng … Người cụ trạng là … mỗ

b- Đương nhiệm trụ trì bổn tự là tỉ-kheo mỗ kính mời mỗ … ngày mai đến tẩm đường dùng thang thủy và cơm. Cúi mong tôn thể từ bi đoái hoài chấp nhận giáng trọng! Cẩn thư trạng Ngày … tháng … người cụ trạng là mỗ

c- Đương nhiệm thủ tọa bổn tự là tỉ-kheo mỗ, kính mời mỗ … ngày mai thượng đường thuyết pháp cử dương Tông chỉ, khai thị kẻ học sau. Cúi mong tôn thể từ bi đoái hoài chấp nhận giáng trọng!

d- Cẩn trạng

e- Ngày … tháng … năm, người cụ trạng là … mỗ

f- Bì thư đựng thư trạng viết : Thư trạng thỉnh mời Thiền sư Hòa thượng đường đầu của chùa mỗ ở xứ mỗ Người cụ thư trạng kính cẩn dán kín

THÍ CHỦ MỜI THĂNG TÒA TRAI TĂNG

Thí chủ đến cổng chùa, tri khách tiếp kiến dẫn lên thất phương trượng đãi trà thang rồi đưa về phòng khách an nghỉ. Nếu là đường quan đại thí chủ thì phải gióng chuông tập họp tăng chúng đón tiếp ngoài cổng chùa, đưa về phòng khách tạm an nghỉ xong, thí chủ phải mời tri sự tăng bàn bạc thương lượng rồi cùng lên thất phương trượng, đốt hương bái thỉnh trụ trì thăng tòa.

Đến ngày hành lễ, trang trí bày biện pháp tòa, trước tòa thiết trí vị trí thí chủ, treo bài hiệu Thượng đường thông báo cho đại chúng, đánh trống tập họp đại chúng. Tri khách cùng thí chủ lên thất phương trượng thỉnh mời trụ trì, phải cụ bị lư hương cầm tay, đèn, phướn, chập chỏa đúng nghi thức, thỉnh mời trụ trì đến trước pháp tòa, thăng tòa ngồi xếp bằng. Thí chủ ở trước pháp tòa lễ bái, tri khách vái chào hướng dẫn vào vị trí ngồi nghe trụ trì thuyết giảng Phật pháp. (Tuy nhiên thí chủ dù nhận lời mời thỉnh ngồi nghe pháp, nhưng chỉ nên đứng nghe trụ trì thuyết giảng mà thôi, vì nếu ngồi nghe là biểu hiện mạn pháp không tôn trọng Phật pháp). Trụ trì thuyết giảng xong xuống tòa, thí chủ phải đến bái tạ ơn nói pháp.

Nếu có buổi trai tăng thì thí chủ phải cùng tri sự bàn bạc phí dụng cho bữa trai. Duy-na đưa ra một danh sách tăng chúng tham dự bữa trai tăng, dự liệu số tài vật bố thí theo số người tham dự mà phân phát đều nhau. Trong tăng đường bày trí vị trí thí chủ, thí chủ cùng trụ trì ngồi đối diện dùng trai xong, tri sự bồi tiếp (bầu bạn) thí chủ đứng đợi giây lát trước tăng đường chờ thủ tọa suất lãnh tăng chúng ra trước tăng đường trí tạ thí chủ. Kế đó, cả trụ trì lẫn tri sự đều đến phòng khách để trí tạ thí chủ. Mỗi khi có thí chủ đem tiền đến gửi cúng dường trai tăng, trụ trì tiếp nhận rồi giao cho tri sự. Tri sự phải đem số tiền này xài hết vào tiệc trai tăng và bố thí tài vật cho đại chúng, chứ không nên xài lem qua vụ việc khác vì phải nhớ tội xài lem số tiền đó sẽ đưa đến hậu quả thảm hại mà thôi.

Sách Nhân thiên bảo giám chép: “Thiền sư Trí ở núi Vân Cái Hồ Nam, ban đêm tọa Thiền tại thất phương trượng, bỗng nghe mùi cháy khét và tiếng khua lẻng xẻng của gông cùm, bèn ngưng Thiền nhìn thì thấy một người đang mang cái cùm lửa, lửa liên tục tắt cháy không ngừng, đuôi cùm kéo lê lên trên cái theo cửa. Thiền sư Trí hoảng kinh hỏi rằng: ‘Ông là ai mà lại phải mang gông cùm khổ sở cùng cực như thế?’. Kẻ mang gông đáp rằng: ‘Kiếp trước con là Thủ Ngung trụ trì chùa này lỡ đem tiền của thí chủ cúng thí cho chư tăng mà xây tăng đường, cho nên nay phải chịu nỗi khổ này’. Thiền sư Trí nói: ‘Vậy giờ phải làm sao để ông được miễn tội?’, Ngung nói: ‘Cúi xin đem tiền đáng giá phí tổn xây tăng đường bố thí cho chư tăng thì con được miễn tội!’. Thiền sư Trí y theo lời, đem tiền của riêng cá nhân mình tương đương giá xây dựng tăng đường bồi thường cúng thí cho chư tăng. Một đêm kia, nằm mộng thấy Ngung về báo rằng: ‘Nhờ vào sức của sư, nay con đã miễn được cái khổ chốn địa ngục, tái sanh nơi cõi trời người, ba kiếp sau trở lại được làm tăng’”. Nay dấu lửa đốt lem trên then cửa hãy còn. Tuy nhiên dù Ngung công có lấy tiền thí chủ thí cúng cho đại chúng đem xây tăng đường đi nữa, nghĩ cho cùng cũng là phục vụ cho chư tăng thụ dụng, vậy mà còn bị quả báo xài lem tiền thí chủ không đúng đối tượng. Nay người trong chốn tùng lâm chối bỏ nhân quả, chẳng riêng gì dùng lem tiền thí chủ bố thí không đúng đối tượng, mà còn cướp trộm rút rỉa tài vật của thường trụ làm của cải cá nhân mình thì là thế nào đây!

NHẬN SỰ CÚNG DƯỜNG TRAI PHẠN CỦA NGƯỜI NỐI PHÁP

Nếu kẻ nối pháp của trụ trì (nay là trụ trì chùa khác) đến chùa cũ xin khoản đãi bữa trai thì phải lệnh cho tri sự mà mình mang theo đến khố ty chùa cũ tính toán xem phí dụng tổ chức buổi lễ mời cơm (độ trai) là bao nhiêu, rồi y theo số ấy mà nạp tiền vật. Đêm trước ngày lễ phải đến thị ty phiền bẩm bạch cùng trụ trì rồi đến thất phương trượng thắp hương trải tọa cụ giập đầu cử hành đại lễ lạy ba lạy. Nếu trụ trì biểu lộ ý tứ miễn đại lễ thì phải giập tọa cụ xuống đất trí ý lễ bái rồi bẩm báo: “Sáng mai tại tăng đường, chúng con có bày biện một bữa cơm rau giản đơn, cúi mong sư phụ từ bi hạ mình quang lâm cho bữa cơm thêm phần long trọng!”. Hành giả khách đầu thỉnh mời lưỡng tự tại đơn liêu và các liêu toàn chùa treo bảng “Mời dùng cơm” thông báo cho toàn chúng. Tới ngày lễ, tòa vị của trụ trì trong tăng đường được bày trí thật tinh tươm, trên bàn trải nắp vải thật tươm tất, trên đó đặt dồi dào tài vật bố thí. Bản tại nhà bếp của khố ty (hỏa bản) được đánh lên, đại chúng tụ tập đến tăng đường. Người đãi tiệc theo trụ trì vào tăng đường vái chào mời ngồi, chuyển người đến trước tượng Thánh tăng thắp hương, lại xoa tay đến trước trụ trì vái chào vấn an, rồi đi vòng phía sau lưng tượng Thánh tăng mà bước ra. Trụ trì đưa tay mời người đãi tiệc ngồi, vị trí ngồi của người đãi tiệc tại bản đầu của tri khách. Hành giả cao giọng nói: “Thỉnh mời đại chúng lấy bình bát treo trên quải đáp đơn xuống!”, đợi cho hành giả hành thực đem cơm và thức ăn đơm khắp cho đại chúng rồi, người đãi tiệc mới đứng dậy đốt hương đưa trình tài vật bố thí ra rồi đến trước trụ trì vái chào vấn an xong ban phát tài vật bố thí cho đại chúng. Bấy giờ, nhà bếp mới đánh trai bản mời mọi người bắt đầu dùng cơm, kế đơm cơm thêm vào bát người ăn chưa no. Dùng cơm xong, đại chúng thâu bát lui ra. Trụ trì hướng dẫn người đãi tiệc thắp hương. Người đãi tiệc tiến đến trước trụ trì vái chào vấn an, rồi đi vòng phía sau tượng Thánh tăng đến trước lư hương vái chào vấn an các người dọn tiệc. Kế đó, dộng chuông rót trà khắp đại chúng, tiến đến trước trụ trì mời trà. Lại từ sau lưng tượng Thánh tăng bước ra đến trước trụ trì trải tọa cụ xuống đất (giập đầu lễ bái đại lễ lạy ba lạy) bẩm bạch: “Lễ mọn hôm nay không đủ trí ý kính trọng, lại nhọc tôn thể quang lâm, trong lòng thật hết sức cảm kích!”. Lần trải tọa cụ thứ hai bẩm bạch chuyện ấm lạnh, đoạn giập tọa cụ xuống nền trí ý lạy ba lạy rồi tiễn đưa trụ trì ra khổi tăng đường. Người đãi tiệc lại quay vào trong tăng đường đốt hương vái chào vấn an cả bên mé phải cũng như bên mé trái tăng đường để cảm tạ các bậc tiền bối và chấp sự tăng đã quang lâm bầu bạn, đoạn quay vào đứng ngay chính giữa tăng đường vái chào thăm hỏi tất cả đại chúng. Đoạn dộng chuông thu dọn chén đĩa rồi đến thất phương trượng cảm tạ trụ trì đã hạ mình quang lâm, trụ trì lại đi theo người đãi tiệc tới phòng khách để cảm tạ ơn thiết đãi tiệc trai.

Nếu như người đãi tiệc là trụ trì các chùa bạn đến bổn tự đãi tiệc trai thì khi trai phạn đã chuẩn bị xong, trai chủ (người đãi tiệc) phải đến thất phương trượng mời trụ trì cùng đến tăng đường, vái chào mời trụ trì vào trai tòa. Trụ trì nên miễn hành lễ cho trai chủ, vái chào mời trai chủ quay lại ngồi vào vị trí của y. Trai chủ chờ cho hành giả phục vụ cơm đã đơm cơm đều khắp cho đại chúng rồi bèn đứng dậy thắp hương, đến trước trụ trì vái chào vấn an dâng tặng tài vật bố thí cho trụ trì rồi đem tài vật bố thí ban phát cho tất cả đại chúng. Kế đó đến trước các khách quí quang lâm bầu bạn, đốt hương vái chào rồi quay về vị trí của mình bầu bạn với mọi người cùng ăn cơm. Lễ đãi trà rau cơm có tiến hành hay không là tùy theo tình hình mà châm chước quyết định không bắt buộc.

ĐƯA DI THƯ CỦA SƯ PHỤ TRUYỀN PHÁP ĐẾN

Chuyên sứ mang thư đến chùa (lễ nghi xin xem ở thiên Di thư phía sau) trụ trì mở thư ra xem tại thất phương trượng. Lưỡng tự trước hết chia buồn cùng trụ trì, ngay chính giữa pháp đường thiết trí bàn linh tế lễ. Trụ trì đến trước tòa tế lễ dâng hương, nói một tắc pháp ngữ, đoạn khóc lóc bi ai lạy ba lạy, dâng cúng thang thủy rồi lại lạy ba lạy nữa. Dâng cơm cúng và lễ vật bố thí, gióng trống cử hành lễ Đặc vi (riêng vì thầy), lạy 3 lạy, hiến cúng trà, gióng ba tiếng trống, thoái lui khổi tòa, thu cuốn tọa cụ. Duy-na cử chú Lăng Nghiêm hồi hướng (lễ nghi cùng với cúng giỗ thầy truyền pháp giống nhau). Lưỡng tự, mông đường (tứ liêu), cao tăng ẩn dật tại chùa, người cùng quê với trụ trì, bạn đồng học pháp cùng thầy với trụ trì (pháp quyến) và hàng đệ tử của trụ trì, cùng các người biện sự đều phải cử hành tế lễ. Trụ trì đứng bên trái bàn linh (nếu như trụ trì các chùa bạn, Tây đường hay các đệ tử của thầy truyền pháp quá cố đồng thứ bậc với trụ trì thượng tế lễ thì trụ trì cùng chuyên sứ phải lạy đáp lễ các vị này. Còn những người ở cương vị thấp hơn trụ trì trở xuống tế lễ thì trụ trì và chuyên sứ không phải lạy đáp lễ). Tế lễ xong, tụng đọc chú Đại bi, hồi hướng rằng: “Công đức phúng tụng kinh chú vừa qua đều hồi hướng cả cho vị đại Hòa thượng mỗ, chùa mỗ, pháp hiệu mỗ được tăng thêm phẩm vị ở cõi Phật. Mười phương ba đời chư Phật v.v…”. Thủ tọa suất lãnh chúng, an ủi trụ trì rằng: “Pháp môn bất hạnh khiến các kẻ hậu học mất chỗ nương tựa, thật không khổi buồn rầu đau đớn tiếc thương. Cúi mong Hòa thượng dằn đau, bớt buồn hầu tiếp tục nỗ lực hoằng dương đạo pháp!”.

    Xem thêm:

  • Kinh Đại Thừa Vô Lượng Thọ - Kinh Tạng
  • Bích Nham Lục Của Thiền Sư Phật Quả Viên Ngộ – Thích Mãn Giác dịch - Kinh Tạng
  • Kinh Đại Ái Đạo Bát Niết Bàn - Kinh Tạng
  • Kinh Nhân Duyên Đồng Tử Quang Minh - Kinh Tạng
  • Mạn Thù Thất Lợi Bồ Tát Cát Tường Già Đà - Kinh Tạng
  • Truyện Các Vị Tăng Thần Dị - Kinh Tạng
  • Thiện ác nghiệp báo phần 13 – Bần Tiện - Kinh Tạng
  • Kinh Mục Kiền Liên Hỏi Năm Trăm Tội Khinh Trọng Trong Giới Luật - Kinh Tạng
  • Kinh Lục Độ Tập - Kinh Tạng
  • Kinh Đà La Ni Đại Phật Đỉnh Quảng Tụ - Kinh Tạng
  • Truyện Các Vị Tỳ Kheo Ni - Kinh Tạng
  • Ngữ Lục Thiền Sư Tào Sơn Bản Tịch - Kinh Tạng
  • Đại Đường Tây Vực Ký - Kinh Tạng
  • Quy Nguyên Trực Chỉ - Kinh Tạng
  • Truyện Ký Kinh Hoa Nghiêm - Kinh Tạng
  • Kinh Đại Thừa Trang Nghiêm Bảo Vương - Kinh Tạng
  • Thiện ác nghiệp báo phần 31 – Tống Chung - Kinh Tạng
  • Kinh Thiện Ác Nhơn Quả – Thích Trung Quán dịch - Kinh Tạng
  • Nghi Quỹ Cúng Dường Dược Sư Thất Phật Kinh Như Ý Vương - Kinh Tạng
  • Kinh Diệu Pháp Liên Hoa – Thích Trí Quang dịch - Kinh Tạng