Quyển thứ 13
19. PHẨM THÁNH HẠNH PHẦN 3
Này thiện nam tử! Ta xem các hành đều là vô thường. Làm sao biết được vậy? Vì do nhân duyên vậy. Nếu có các pháp từ nhân duyên sinh ra thì biết là vô thường. Các ngoại đạo đó không có một pháp nào mà chẳng từ nhân duyên sinh ra. Này thiện nam tử! Phật tính không sinh, không diệt, không đi, không lại, chẳng phải quá khứ, chẳng phải vị lai, chẳng phải hiện tại, chẳng phải nhân sở tác, chẳng phải không nhân sở tác, chẳng phải tác, chẳng phải tác giả, chẳng phải tướng, chẳng phải vô tướng, chẳng phải có danh, chẳng phải không danh, chẳng phải danh, chẳng phải sắc, chẳng phải dài, chẳng phải ngắn, chẳng phải sự nhiếp trì của ấm, giới, nhập. Vậy nên gọi là thường. Này thiện nam tử! Phật tính tức là Như Lai, Như Lai tức là pháp, pháp tức là Thường. Này thiện nam tử! Thường tức là Như Lai, Như Lai tức là Tăng, Tăng tức là Thường. Do nghĩa này nên pháp từ nhân duyên sinh chẳng gọi là Thường. Các ngoại đạo này không có một pháp nào mà chẳng từ nhân duyên sinh. Này thiện nam tử! Những ngoại đạo này chẳng thấy Phật tính, Như Lai và Pháp. Vậy nên lời nói ra của ngoại đạo đều là nói dối, không có chân đế. Những người phàm phu trước thấy bình, quần áo, xe cộ, nhà cửa, thành quách, sông nước, núi rừng, nam nữ, voi ngựa, trâu dê… rồi sau thấy tương tợ thì liền nói rằng Thường. Phải biết thật ra những cái ấy chẳng phải là thường vậy. Này thiện nam tử! Tất cả hữu vi đều là vô thường. Hư không thì vô vi, vậy nên là Thường. Phật tính thì vô vi, vậy nên là Thường. Hư không tức là Phật tính, Phật tính tức là Như Lai, Như Lai tức là Vô vi, Vô vi tức là Thường. Thường tức là Pháp, Pháp tức là Tăng, Tăng tức là Vô vi, Vô vi tức là Thường. Này thiện nam tử! Pháp hữu vi thường có hai thứ là sắc pháp và phi sắc pháp. Phi sắc pháp là tâm, tâm số pháp. Sắc pháp là đất, nước, lửa, gió. Này thiện nam tử! Tâm gọi là Vô thường. Vì sao vậy? Vì tính của nó vin vào duyên mà tương ứng, phân biệt. Này thiện nam tử! Tính nhãn thức khác… cho đến tính ý thức khác. Vậy nên Vô thường. Này thiện nam tử! Cảnh giới của sắc khác…. cho đến cảnh giới của pháp khác. Vậy nên vô thường. Này thiện nam tử! Tương ứng của nhãn thức khác… cho đến tương ứng của ý thức khác. Vậy nên vô thường. Này thiện nam tử! Tâm nếu thường thì nhãn thức ứng với xúc duyên tất cả pháp. Này thiện nam tử! Nếu nhãn thức khác… cho đến ý thức khác thì biết là vô thường. Do pháp tương tợ mà từng niệm, từng niệm sinh diệt nên người phàm phu thấy rồi cho đó là Thường. Này thiện nam tử! Các nhân duyên có thể phá hoại nhau nên cũng gọi là vô thường. Như là nhân mắt, nhân màu sắc, nhân ánh sáng, nhân suy nghĩ mà sinh ra nhãn thức (sự nhận biết của mắt). Khi nhĩ thức sinh thì các nhân duyên đều khác, chẳng phải là nhân duyên của nhãn thức… cho đến sự khác của ý thức cũng lại như vậy. Lại nữa, này thiện nam tử! Phá hoại các hành thì nhân duyên khác nên tâm gọi là Vô thường. Như là tu Vô thường là tâm khác, tu Khổ, Không, Vô ngã là tâm khác. Tâm nếu Thường thì nên dùng Thường tu Vô thường mà còn chẳng được dùng để quan sát Khổ, Không, Vô ngã huống là lại được dùng để quan sát Thường, Lạc, Ngã, Tịnh. Do nghĩa này nên trong pháp của ngoại đạo chẳng thể nhiếp lấy Thường, Lạc, Ngã, Tịnh. Này thiện nam tử! Ông phải biết rằng, tâm pháp nhất định là vô thường. Lại nữa, này thiện nam tử! Tâm tính khác nên gọi là Vô thường. Như là tâm tính của Thanh Văn khác, tâm tính của Duyên Giác khác, tính của tâm chư Phật khác. Tâm của tất cả ngoại đạo có ba thứ, một là tâm xuất gia, hai là tâm tại gia, ba là tâm xa lìa tại gia. Lạc tướng ứng với tâm khác, khổ tương ứng với tâm khác, chẳng khổ chẳng lạc tương ứng với tâm khác, tham dục tương ứng với tâm khác, sân nhuế tương ứng với tâm khác, ngu si tương ứng với tâm khác. Tâm của tất cả ngoại đạo cũng khác nhau. Như là ngu si tương ứng với tâm khác, nghi hoặc tương ứng với tâm khác, tà kiến tương ứng với tâm khác, uy nghi tiến dừng, tâm ấy cũng khác. Này thiện nam tử! Tâm nếu thường thì cũng lại chẳng thể phân biệt các sắc như là màu xanh, vàng, đỏ, trắng, tía… Này thiện nam tử! Nếu tâm thường thì các pháp nhớ nghĩ chẳng nên quên mất. Này thiện nam tử! Tâm nếu thường thì sự đọc tụng chẳng nên tăng trưởng. Lại nữa, này thiện nam tử! Tâm nếu thường thì chẳng nên nói rằng đã tác, nay tác, sẽ tác (làm). Nếu có đã tác, nay tác, sẽ tác thì phải biết rằng là tâm nhất định vô thường. Này thiện nam tử! Tâm nếu Thường thì không oán, không thân, chẳng phải oán, chẳng phải thân. Tâm nếu thường thì chẳng nên nói rằng, vật của ta hay vật của người khác, hoặc tử hay sinh. Tâm nếu Thường thì tuy có sở tác nhưng chẳng nên tăng trưởng. Này thiện nam tử! Do nghĩa này nên phải biết tính của tâm mỗi mỗi đều khác biệt mà có khác biệt thì phải biết là vô thường. Này thiện nam tử! Ta nay ở trong pháp chẳng phải sắc này, diễn nói vô thường, nghĩa ấy đã hiển hiện, lại phải vì ông nói sắc vô thường! Sắc này vô thường vốn không có sinh mà sinh rồi thì diệt vậy. Bên trong thân khi ở thai thì Ca la la (?) vốn không có sinh mà sinh rồi thì biến đổi. Bên ngoài mầm chồi, thân cây vốn cũng không sinh mà sinh rồi thì biến đổi. Vậy nên phải biết, tất cả sắc pháp đều vô thường. Này thiện nam tử! Cái có bên trong sắc tùy lúc mà biến đổi, khi Ca la la khác, khi an phù đà khác, khi dà na khác, khi bế thủ (khép tay) khác, khi những nốt phỏng (?) khác, khi mới sinh khác, khi con trẻ khác, khi đồng tử khác… cho đến khi già, mỗi mỗi đều đổi khác. Sở dĩ bên ngoài sắc cũng lại như vậy, mầm chồi khác, thân khác, cành khác, lá khác, hoa khác, trái khác. Lại nữa, này thiện nam tử! Bên trong vị cũng khác, từ khi Ca la la cho đến già, mỗi mỗi đều biến đổi khác. Bên ngoài vị cũng vậy, thân, cành, lá, hoa, quả vị đều khác. Khi Ca la la thì lực khác… cho đến khi già thì lực khác. Khi Ca la la thì hình dáng khác…. cho đến khi già thì hình dáng cũng khác. Khi Ca la la thì quả báo khác… cho đến khi già thì quả báo cũng khác. Khi Ca la la thì tên gọi khác…. cho đến khi già thì tên gọi cũng khác. Cái gọi là sắc bên trong hoại rồi thì trở lại hòa hợp nên biết là vô thường. Những cây cối bên ngoài cũng hoại rồi trở lại hợp, nên biết là vô thường. Theo thứ lớp mà sinh ra dần dần, nên biết là vô thường. Theo thứ lớp sinh ra, từ khi Ca la la cho đến khi già; theo thứ lớp sinh ra, từ mầm chồi cho đến trái, hạt. Vậy nên biết là vô thường. Các sắc có thể diệt, nên biết là vô thường. Khi Ca la la diệt khác… cho đến khi già diệt khác; khi mầm chồi diệt khác… cho đến khi quả trái diệt khác. Vậy nên biết là vô thường. Kẻ phàm phu vô trí thấy sinh ra tương tợ thì cho là thường. Do nghĩa này nên gọi là Vô thường mà nếu vô thường thì tức là Khổ mà nếu là khổ thì tức là bất tịnh. Này thiện nam tử! Ta nhân ông Ca Diếp trước hỏi việc này mà đối với ông đó đã đáp.
Lại nữa, này Thiện nam tử! Các hành vô ngã. Này thiện nam tử! Tóm lại tất cả pháp gọi là sắc chẳng phải sắc, sắc chẳng phải Ngã vậy. Vì sao vậy? Vì sắc có thể phá, có thể hoại, có thể xé, có thể bẻ, có sinh ra, có tăng trưởng, còn Ngã thì chẳng thể phá, hoại, xé, bẻ và sinh trưởng. Do nghĩa này nên biết sắc chẳng phải Ngã. Pháp chẳng phải sắc cũng lại chẳng phải Ngã. Vì sao vậy? Vì nhân duyên vậy! Này thiện nam tử! Nếu các ngoại đạo do chuyên niệm nên biết có ngã thì tính của chuyên niệm thật chẳng phải là Ngã vậy. Nếu dùng chuyên niệm làm tính của Ngã thì việc của quá khứ có quên mất mà có quên mất nên nhất định biết là Vô ngã. Này thiện nam tử! Nếu các ngoại đạo do tưởng nhớ nên biết có Ngã thì không nhớ tưởng nên nhất định biết là Vô ngã. Như nói, thấy người tay có sáu ngón liền hỏi rằng, ta trước thấy nhau ở đâu vậy? Nếu có Ngã thì chẳng nên hỏi nữa mà đã hỏi nhau nên nhất định biết là Vô ngã. Này thiện nam tử! Nếu các ngoại đạo do có ngăn chận nên biết có Ngã thì này thiện nam tử! Do có ngăn chận nên nhất định biết là Vô ngã. Như nói rằng, Ðiều Ðạt nhất định chẳng nói rằng, chẳng phải Ðiều Ðạt. Ngã cũng lại như vậy, nếu nhất định là Ngã thì nhất định chẳng ngăn chận Ngã. Do ngăn chận Ngã nên nhất định biết là vô ngã. Nếu do ngăn chận nên biết có Ngã thì ông hôm nay chẳng ngăn chận nên nhất định Vô ngã. Này thiện nam tử! Nếu các ngoại đạo do bạn, chẳng phải bạn nên biết có Ngã thì do không bạn nên ứng với không có Ngã. Có pháp không bạn, như là Như Lai, hư không, Phật tính. Ngã cũng như vậy, thật không có bạn. Do nghĩa này nên nhất định biết là Vô ngã. Lại nữa, này thiện nam tử! Nếu các ngoại đạo do tên gọi nên biết có Ngã thì trong pháp Vô ngã cũng có tên của Ngã, như người nghèo hèn có tên gọi là Giàu Sang. Như nói rằng, Ngã chết. Nếu Ngã chết thì Ngã giết Ngã mà thật ra Ngã chẳng thể giết. Giả gọi là giết Ngã cũng như người thấp mà tên là cao. Do nghĩa này nên nhất định biết là Vô ngã. Lại nữa, này thiện nam tử! Nếu các ngoại đạo khi sanh cần sữa thì nên biét là có ngã. Này thiện nam tử! Nếu có Ngã thì tất cả trẻ con chẳng nên nắm lấy phân bẩn, rắn, thuốc độc. Do nghĩa này nên nhất định biết là Vô ngã. Lại nữa, này thiện nam tử! Tất cả chúng sinh đối với ba pháp đều có đẳng trí, đó là dâm dục, ăn uống, khủng bố. Vậy nên có ngã. Lại nữa, này thiện nam tử! Nếu các ngoại đạo do tướng mạo nên biết có Ngã thì này thiện nam tử! Có tướng mạo nên vô ngã mà vô tướng nên cũng vô ngã. Như khi người ngủ, chẳng thể tiến, dừng, cúi, ngữa, nhìn ngó, chẳng biết khổ, vui thì chẳng ứng có Ngã. Nếu do tiến, dừng, cúi, ngữa, nhìn ngó mà biết có Ngã thì người gỗ máy cũng ứng có Ngã. Này thiện nam tử! Như Lai cũng vậy, chẳng tiến, chẳng dừng, chẳng cúi, chẳng ngữa, chẳng nhìn, chẳng ngó, chẳng khổ, chẳng vui, chẳng tham, chẳng sân, chẳng si, chẳng hành… Như Lai như vậy là chân thật có Ngã. Lại nữa, này thiện nam tử! Nếu các ngoại đạo do thấy người khác ăn trái cây mà trong miệng chảy nước miếng nên biết là có Ngã thì, này thiện nam tử! Do nhớ nghĩ nên thấy thì chảy nước miếng mà nước miếng chẳng phải là Ngã, Ngã cũng chẳng phải nước miếng, chẳng phải vui, chẳng phải buồn, chẳng phải cười, chẳng phải khóc, chẳng phải nằm, chẳng phải dậy, chẳng phải đói, chẳng phải no… Do nghĩa này nên nhất định biết là Vô ngã. Này thiện nam tử! Những ngoại đạo này si dại như đứa trẻ con không phương tiện tuệ, chẳng thể thông đạt Thường cùng Vô thường, khổ – lạc, tịnh – bất tịnh, ngã – vô ngã, thọ mạng – chẳng phải thọ mạng, chúng sinh – chẳng phải chúng sinh, thật – chẳng phải thật, có – chẳng phải có. Ở trong Phật pháp, họ thủ lấy được chút ít nên hư vọng cho là có Thường, Lạc, Ngã, Tịnh mà thật chẳng biết Thường Lạc Ngã Tịnh. Như người mù bẩm sinh chẳng biết màu của sữa liền hỏi người khác rằng: “Màu sữa giống màu gì?” Người khác đáp rằng: “Màu trắng như vỏ sò!” Người mù lại hỏi: “Màu sữa này như tiếng vỏ sò sao?” Ðáp rằng: “Chẳng phải vậy!” Lại hỏi: “Màu vỏ sò giống cái gì vậy?” Ðáp rằng: “Giống như hạt gạo lúa nước”. Người mù lại hỏi: “Màu sữa mềm mại như hạt gạo lúa nước sao? Hạt gạo lúa nước thì lại tương tợ cái gì?” Ðáp rằng: “Giống như mưa tuyết!” Người mù lại nói rằng: “Hạt gạo lúa nước kia lạnh như tuyết sao? Tuyết lại tương tợ cái gì?” Ðáp rằng: “Giống như con hạc trắng!” Người mù bẩm sinh tuy nghe bốn thứ ví dụ như vậy nhưng nhất định chẳng thể biết được màu sắc chân thật của sữa. Những ngoại đạo này cũng lại như vậy, nhất định chẳng thể nhận thức được Thường Lạc Ngã Tịnh. Này thiện nam tử! Do nghĩa này nên Ngã, trong Phật pháp, có Chân thật đế chứ chẳng phải ở trong ngoại đạo.
Ngài Văn Thù Sư Lợi bạch đức Phật rằng:
– Hy hữu quá! Thưa đức Thế Tôn! Ðức Như Lai đến hôm nay sắp Bát Niết Bàn mới lại chuyển pháp luân Vô thượng, mới làm sự phân biệt Chân đế như vậy!
Ðức Phật bảo ngài Văn Thù Sư Lợi rằng:
– Ông nay sao lại còn đối với Như Lai sinh ra Niết Bàn tưởng? Này thiện nam tử! Như Lai chân thật là thường trụ bất biến, chẳng Bát Niết Bàn! Này thiện nam tử! Nếu có người cho ta là Phật, ta thành Vô Thượng Chánh Ðẳng Chánh Giác, ta tức là Pháp mà Pháp là cái của ta, ta tức là Ðạo mà Ðạo là cái của ta, ta tức là Thế Tôn mà Thế Tôn là cái của ta, ta tức là Thanh Văn mà Thanh Văn là cái của ta, ta có thể nói pháp khiến cho người khác thỉnh thọ, ta chuyển pháp luân còn người khác thì chẳng thể chuyển… thì Như Lai nhất định chẳng kể là như vậy. Vậy nên Như Lai chẳng chuyển pháp luân. Này thiện nam tử! Nếu có người hư vọng cho là như vầy: Ngã tức là mắt mà mắt là Ngã sở (cái thuộc về Ngã), tai, mũi, lưỡi, thân, ý cũng lại như vậy. Ngã tức là sắc mà sắc là Ngã sở…. cho đến Pháp cũng như vậy. Ngã tức là đất mà đất là ngã sở, nước, lửa, gió.v.v… cũng lại như vậy. Này thiện nam tử! Nếu có người nói rằng, Ngã tức là tín mà tín là ngã sở, Ngã là đa văn mà đa văn là ngã sở, Ngã là Ðàn Balamật mà Ðàn Balamật tức là ngã sở, Ngã là Thi Balamật mà Thi Balamật tức là ngã sở, Ngã là Sằn đề Balamật mà Sằn đề Balamật tức là ngã sở, Ngã là Tỳ lê gia Balamật mà Tỳ lê gia Balamật tức là ngã sở, Ngã là Thiền Balamật mà Thiền Balamật tức là ngã sở, Ngã là Bát Nhã Balamật mà Bát Nhã Balamật tức là ngã sở, Ngã là bốn niệm xứ mà bốn niệm xứ tức là ngã sở, bốn Chánh cần, bốn Như ý túc, năm Căn, năm Lực, bảy Giác phận, tám Thánh đạo phận cũng lại như vậy. Này thiện nam tử! Như Lai nhất định chẳng cho là như vậy. Vậy nên Như Lai chẳng chuyển pháp luân. Này thiện nam tử! Nếu nói rằng, thường trụ không có biến dị thì sao nói rằng, Phật chuyển pháp luân? Vậy nên nay ông chẳng nên nói rằng, Như Lai mới lại chuyển pháp luân Vô thượng. Này thiện nam tử! Ví như nhân mắt duyên với sắc, duyên với ánh sáng, duyên với tư duy rồi nhân duyên hòa hợp được sinh ra nhãn thức. Này thiện nam tử! Mắt chẳng nghĩ rằng, ta có thể sinh ra thức. Từ sắc cho đến tư duy nhất định chẳng nghĩ rằng, ta sinh ra nhãn thức. Nhãn thức cũng lại chẳng khởi ý nghĩ rằng, ta có thể tự sinh ra. Này thiện nam tử! Như vậy những pháp do nhân duyên hòa hợp được gọi là thấy (kiến). Này thiện nam tử! Như Lai cũng vậy, nhân sáu Balamật, ba mươi bảy pháp trợ Bồ Ðề hiểu biết rõ các pháp, lại nhân yết hầu, lưỡi răng, môi, miệng, lời nói, âm thanh để vì ông Kiều Trần Như nói pháp đầu tiên, gọi là Chuyển pháp luân. Do nghĩa này nên Như Lai chẳng gọi là Chuyển pháp luân vậy. Này thiện nam tử! Nếu chẳng chuyển thì tức gọi là Pháp mà Pháp tức là Như Lai. Này thiện nam tử! Ví như nhân đồ lấy lửa, nhân cái dùi, nhân tay, nhân phân trâu khô mà được sinh ra lửa. Ðồ lấy lửa cũng chẳng nói rằng, ta có thể sinh ra lửa. Cái dùi, tay, phân trâu khô đều chẳng nghĩ rằng, ta có thể sinh ra lửa. Lửa cũng chẳng nói rằng, ta có thể tự sinh ra. Như Lai cũng vậy, nhân sáu Balamật… cho đến Kiều Trần Như thì gọi là Chuyển pháp luân. Như Lai cũng lại chẳng sinh ý niệm rằng, ta Chuyển pháp luân. Này thiện nam tử! Nếu chẳng sinh thì đó gọi là Chuyển chánh pháp luân. Chuyển pháp luân này tức gọi là Như Lai. Này thiện nam tử! Ví như nhân cao sữa, nhân nước, nhân quậy đão, nhân bình, nhân sợi dây, nhân tay người bắt lấy mà được có ra váng sữa. Váng sữa cũng chẳng nói rằng, ta có thể tự có ra. Cho đến tay của người cũng chẳng có thể nghĩ rằng ta có thể sinh ra ván sữa. Ván sữa cũng chẳng nói rằng ta có thể tự sinh.Do mọi duyên hòa hợp nên được có ra váng sữa (tô). Như Lai cũng vậy, nhất định chẳng nghĩ rằng, ta chuyển pháp luân. Này thiện nam tử! Nếu chẳng có ra thì đó gọi là Chuyển chánh pháp luân. Chuyển pháp luân này tức là Như Lai. Này thiện nam tử! Ví như nhân hạt giống, nhân đất, nhân nước, nhân lửa, nhân gió, nhân phân, nhân thời tiết, nhân con người tác nghiệp mà mầm được sinh ra. Này thiện nam tử! Hạt giống cũng chẳng nói rằng, ta có thể sinh ra mầm… cho đến con người tác nghiệp cũng chẳng nghĩ rằng, ta có thể sinh ra mầm. Mầm cũng chẳng nói rằng, ta có thể tự sinh ra. Như Lai cũng vậy, nhất định chẳng nghĩ rằng, ta chuyển pháp luân. Này thiện nam tử! Nếu chẳng làm thì đó gọi là Chuyển chánh pháp luân. Chuyển pháp luân này tức là Như Lai. Này thiện nam tử! Ví như nhân cái trống, nhân hư không, nhân da, nhân con người, nhân dùi trống hòa hợp phát ra tiếng. Trống chẳng nghĩ rằng, ta có thể phát ra tiếng… cho đến cái dùi trống cũng như vậy. Tiếng cũng chẳng nói rằng, ta có thể tự sinh ra. Này thiện nam tử! Như Lai cũng vậy, nhất định chẳng nghĩ rằng, ta chuyển pháp luân. Này thiện nam tử! Chuyển pháp luân thì gọi là chẳng làm mà chẳng làm thì tức là chuyển pháp luân. Chuyển pháp luân tức là Như Lai. Này thiện nam tử! Chuyển pháp luân thì mới là cảnh giới của các đức Phật Thế Tôn, chẳng phải là sự hiểu biết của các Thanh Văn, Duyên Giác. Này thiện nam tử! Hư không chẳng phải sinh, chẳng phải ra, chẳng phải làm, chẳng phải tạo, chẳng phải pháp hữu vi. Như Lai cũng vậy, chẳng phải sinh, chẳng phải ra, chẳng phải tác, chẳng phải tạo, chẳng phải pháp hữu vi. Như Như Lai tính, Phật tính cũng vậy, chẳng phải sinh, chẳng phải ra, chẳng phải tác, chẳng phải tạo, chẳng phải pháp hữu vi. Này thiện nam tử! Lời nói của các đức Phật Thế Tôn có hai thứ, một là lời nói thế gian, hai là lời nói xuất thế gian. Này thiện nam tử! Như Lai vì những Thanh Văn, Duyên Giác nói ra lời nói thế gian, vì các Bồ tát nói lời nói xuất thế gian. Này thiện nam tử! Những đại chúng này lại có hai hạng, một là hạng cầu Tiểu thừa, hai là hạng cầu Ðại Thừa. Ta ngày trước, ở thành Ba la Nại vì các Thanh Văn chuyển Pháp Luân. Hôm nay, bắt đầu ở thành Câu Thi Na này ta vì các Bồ tát chuyển Ðại Pháp Luân. Lại nữa, này thiện nam tử! Lại có hai hạng người là người trung căn và người thượng căn. Ta vì người trung căn, ở thành Ba La Nại chuyển pháp luân. Ta vì người thượng căn, hạng vua voi trong loài người, như Bồ tát Ca Diếp.v.v… nay ở thành Câu Thi Na này chuyển bánh xe Ðại pháp. Này thiện nam tử! Kẻ hạ căn cùng cực thì Như Lai nhất định chẳng vì họ mà chuyển pháp luân. Người hạ căn cùng cực tức là nhất xiển đề. Lại nữa, này thiện nam tử! Người cầu Phật đạo lại có hai hạng, một là hạng trung tinh tấn, hai là hạng thượng tinh tấn. Ở thành Ba la Nại, ta vì hạng trung tinh tấn mà chuyển pháp luân. Hôm nay ở thành Câu Thi Na này, ta vì hạng thượng tinh tấn mà chuyển bánh xe Ðại pháp. Lại nữa, này thiện nam tử! Ngày trước, ở thành Ba La Nại kia, lần đầu tiên ta chuyển pháp luân thì tám vạn trời, người được quả Tu Ðà Hoàn. Hôm nay, ở thành Câu Thi Na này, có tới tám mươi vạn ức người chẳng thoái chuyển đối với Vô Thượng Chánh Ðẳng Chánh Giác. Lại nữa, này thiện nam tử! Ở thành Ba La Nại vua trời Ðại Phạm cúi đầu thỉnh ta chuyển bánh xe pháp. Hôm nay, ở thành Câu Thi Na này, Bồ tát Ca Diếp cúi đầu thỉnh ta chuyển bánh xe Ðại pháp. Lại nữa, này thiện nam tử! Thuở trước, ở thành Ba La Nại kia, khi ta chuyển pháp luân thì nói về Vô thường, Khổ, Không, Vô ngã. Hôm nay, ở thành Câu Thi Na này, khi ta chuyển pháp luân thì nói về Thường Lạc Ngã Tịnh.
Lại nữa, này thiện nam tử! Thuở trước, ở thành Ba La Nại kia, khi ta chuyển pháp luân thì âm thanh phát ra vang đến cõi trời Phạm. Hôm nay, ở thành Câu Thi Na, khi Như Lai chuyển pháp luân thì âm phát ra vang khắp cùng thế giới chư Phật nhiều bằng hai mươi lần cát sông Hằng ở phương Ðông và phương Nam, phương Tây, phương Bắc, bốn phương bàng, phương trên, phương dưới cũng lại như vậy. Lại nữa, này thiện nam tử! Các đức Phật Thế Tôn phàm có điều nói ra đều gọi là chuyển pháp luân vậy. Này thiện nam tử! Ví như Luân bảo (báu bánh xe) sở hữu của vị Thánh vương, đối với người chưa hàng phục thì có thể hàng phục, kẻ đã hàng phục thì có thể khiến cho yên ổn. Này thiện nam tử! Các đức Phật Thế Tôn phàm đã nói pháp thì cũng lại như vậy, người vô lượng phiền não chưa điều phục thì có thể khiến cho điều phục, người đã điều phục thì khiến cho họ sinh ra thiện căn. Này thiện nam tử! Ví như Luân bảo sở hữu của vị Thánh vương có thể tiêu diệt tất cả oán tặc. Như Lai diễn pháp cũng lại như vậy, có thể khiến cho tất cả các giặc phiền não đều tịch tịnh hết. Lại nữa, này thiện nam tử! Ví như Luân bảo sở hữu của vị Thánh vương hồi chuyển lên xuống. Như Lai nói pháp cũng lại như vậy, có thể khiến cho những chúng sinh ác của đường dưới sinh lên cõi người, trời… cho đến Phật đạo. Này thiện nam tử! Vậy nên nay ông chẳng nên khen rằng, Như Lai ở đây lại chuyển pháp luân.
Lúc bấy giờ, ngài Văn Thù Sư Lợi bạch đức Phật rằng:
– Thưa đức Thế Tôn! Con đối với nghĩa này chẳng phải là chẳng biết. Sở dĩ con hỏi là muốn lợi ích cho các chúng sinh! Thưa đức Thế Tôn! Con từ lâu đã biết, chuyển pháp luân quả thật là cảnh giới của các đức Phật Thế Tôn, chẳng phải là sự theo kịp của hàng Thanh Văn, Duyên Giác.
Lúc bấy giờ, đức Thế Tôn bảo Bồ tát Ca Diếp rằng:
– Này thiện nam tử! Ðó gọi là việc lành Thánh hạnh của Bồ tát trụ ở Kinh Ðại Thừa Ðại Niết Bàn.
Bồ tát Ca Diếp bạch đức Phật rằng:
– Thưa đức Thế Tôn! Lại do ý nghĩa gì nên gọi là Thánh hạnh?
– Này thiện nam tử! Thánh là gọi các đức Phật Thế Tôn. Do nghĩa này nên gọi là Thánh hạnh!
– Thưa đức Thế Tôn! Nếu là sở hạnh của các đức Phật thì chẳng phải là hạnh có thể tu hành của hàng Thanh Văn, Duyên Giác, Bồ tát!
– Này thiện nam tử! Những vị Thế Tôn đó an trụ ở Ðại Bát Niết Bàn này mà làm như vậy để khai thị, phân biệt, diễn nói nghĩa ấy! Do nghĩa này nên gọi là Thánh hạnh. Hàng Thanh Văn, Duyên Giác và Bồ tát nghe như vầy rồi có thể phụng hành nên gọi là Thánh hạnh. Này thiện nam tử! Ðại Bồ tát này được hạnh đó rồi thì được trụ ở Vô Sở Úy Ðịa. Này thiện nam tử! Nếu có Bồ tát được trụ ở Vô Sở Úy Ðịa như vậy thì chẳng còn sợ tham dục, sân nhuế, ngu si, sinh, già, bệnh, chết nữa, cũng lại chẳng sợ những đường ác, địa ngục, súc sinh, ngã quỉ. Này thiện nam tử! Ác có hai thứ, một là A tu la, hai là trong loài người. Trong loài người có ba loại ác, một là nhất xiển đề, hai là bài báng kinh điển Phương Ðẳng, ba là phạm bốn trọng cấm. Này thiện nam tử! Trụ ở trong Ðịa này, các Bồ tát.v.v… nhất định chẳng sợ rơi vào trong những ác như vậy cũng lại chẳng sợ Samôn, Balamật, ngoại đạo tà kiến, Thiên ma Ba Tuần, cũng lại chẳng sợ sinh ở hai mươi lăm cõi hữu. Vậy nên Ðịa này gọi là Vô Sở Úy. Này thiện nam tử! Ðại Bồ tát trụ ở Vô Úy Ðịa được hai mươi lăm tam muội hoại hai mươi lăm cõi hữu. Này thiện nam tử! Các Ðại Bồ tát ấy được Vô Cấu tam muội có thể hoại Ðịa ngục hữu, được Vô Thoái tam muội có thể hoại súc sinh hữu, được Tâm lạc tam muội có thể hoại Ngã quỉ hữu, được Hoan hỷ tam muội có thể hoại A tu la hữu, được Nhật quang tam muội có thể đoạn Phất Bà Ðề hữu, được Nguyệt quang tam muội có thể đoạn Cù Gia Ni hữu, được Nhiệt viêm tam muội có thể đoạn Uất Ðan Việt hữu, được Như huyễn tam muội có thể đoạn Diêm Phù Ðề hữu, được Nhất thiết pháp bất động tam muội có thể đoạn Tứ Thiền Xứ hữu, được Nan phục tam muội có thể đoạn Tam Thập Tam Thiên Xứ hữu, được Duyệt Ý tam muội có thể đoạn Viêm Ma Thiên hữu, được Thanh sắc tam muội có thể đoạn Ðâu Suất Thiên hữu, được Hoàng sắc tam muội có thể đoạn Hóa Lạc Thiên hữu, được Xích sắc tam muội có thể đoạn Tha Hóa Tự Tại Thiên hữu, được Bạch sắc tam muội có thể đoạn Sơ Thiền hữu, được Chủng chủng tam muội có thể đoạn Phạm Thiên Vương hữu, được Song tam muội có thể đoạn Nhị Thiền hữu, được Lôi âm tam muội có thể đoạn Tam Thiền hữu, được Chú vũ tam muội có thể đoạn Tứ Thiền hữu, được Như hư không tam muội có thể đoạn Vô Tưởng hữu, được Chiếu Kinh (gương) tam muội có thể đoạn Tịnh Cư A Na Hàm hữu, được Vô ngại tam muội có thể đoạn Không Xứ hữu, được Thường tam muội có thể đoạn Thức Xứ hữu, được Lạc tam muội có thể đoạn Bất Dụng Xứ hữu, được Ngã tam muội có thể đoạn Phi Tưởng Phi Phi Tưởng Xứ hữu. Này thiện nam tử! Ðó gọi là Bồ tát được hai mươi lăm tam muội đoạn trừ hai mươi lăm cõi hữu. Này thiện nam tử! Hai mươi lăm tam muội như vậy gọi là những vua tam muội. Này thiện nam tử! Ðại Bồ tát vào những vua tam muội như vậy, nếu muốn thổi tan vua núi Tu Di thì có thể theo ý mình, muốn biết ý nghĩ trong lòng của những chúng sinh sẵn có của ba ngàn đại thiên thế giới, cũng có thể biết hết, muốn đem số chúng sinh sẵn có của ba ngàn đại thiên thế giới vào trong một lỗ chân lông của thân mình thì có thể theo ý mình mà cũng khiến cho chúng sinh không có cảm tưởng bị dồn ép, muốn hóa làm vô lượng chúng sinh khiến cho đầy ắp trong ba ngàn đại thiên thế giới thì cũng có thể làm theo ý, có thể phân chia một thân ra làm nhiều thân, rồi lại hợp nhiều thân làm một thân. Bồ tát tuy tác khởi như vậy nhưng lòng không có sự nhiễm trước giống như hoa sen. Này thiện nam tử! Ðại Bồ tát được vào những vua tam muội như vậy rồi liền được trụ ở Tự Tại Ðịa. Bồ tát trụ ở Tự Tại Ðịa này được sức tự tại, tùy theo chỗ muốn sinh liền được vãng sinh. Này thiện nam tử! Ví như vị Thánh Vương thống lĩnh bốn thiên hạ, đi đâu tùy ý không thể chướng ngại. Ðại Bồ tát cũng lại như vậy, tất cả chỗ sinh nếu muốn sinh thì theo ý vãng sinh. Này thiện nam tử! Ðại Bồ tát, nếu thấy tất cả chúng sinh của địa ngục có thể giáo hóa khiến cho trụ ở thiện căn thì Bồ tát liền vãng sinh vào trong ấy. Bồ tát tuy sinh nhưng chẳng phải do nghiệp quả xưa mà do nhân duyên lực của Bồ tát trụ Tự Tại Ðịa nên sinh ra trong địa ngục ấy. Này thiện nam tử! Ðại Bồ tát tuy ở tại địa ngục nhưng chẳng chịu những khổ như thân rực cháy, tan nát.v.v… Này thiện nam tử! Ðại Bồ tát đã thành tựu công đức vô lượng vô biên trăm ngàn vạn ức như vậy còn chẳng thể nói, huống gì là công đức sở hữu của chư Phật mà sẽ có thể nói được sao?
Lúc bấy giờ, trong chúng có một vị Bồ tát tên là Vô Cấu Tạng Vương, có đại uy đức, thành tựu thần thông, được Ðại Tổng Trì tam muội đầy đủ, được Vô sở úy, liền đứng dậy, trịch áo vai phải, gối phải đặt xuống đất, quì dài, chắp tay bạch đức Phật rằng:
– Thưa đức Thế Tôn! Như lời đức Phật nói, các đức Phật, Bồ tát đã thành tựu công đức trí tuệ vô lượng vô biên, trăm ngàn vạn ức, thật chẳng thể nói, nhưng theo ý con vẫn cho là chẳng bằng Kinh điển Ðại Thừa này! Vì sao vậy? Vì nhân vào sức của Kinh Ðại Thừa Phương Ðẳng này có thể sinh ra các đức Phật Thế Tôn Vô Thượng Chánh Ðẳng Chánh Giác.
Ðức Phật khen rằng:
– Hay thay! Hay thay! Này thiện nam tử! Ðúng vậy! Ðúng vậy! Ðúng như lời ông nói! Kinh điển Ðại Thừa Phương Ðẳng này tuy lại thành tựu vô lượng công đức nhưng muốn sách Kinh này bằng thí dụ thì chẳng được, dù được nhân lên trăm lần, ngàn lần, trăm ngàn vạn ức lần… cho đến thí dụ tính toán đã chẳng thể bì kịp. Này thiện nam tử! Ví như từ trâu ra sữa, từ sữa ra cao sữa, từ cao sữa ra váng sữa sống, từ váng sữa sống (sinh tô) ra váng sữa chín, từ váng sữa chín ra đề hồ. Ðề hồ là tối thượng, nếu có người uống thì mọi bệnh đều tiêu trừ, các thuốc sẵn có đều vào trong đề hồ ấy. Này thiện nam tử! Phật cũng như vậy, từ Phật ra mười hai bộ Kinh, từ mười hai bộ Kinh ra Tu đa la, từ Tu đa la ra Kinh Phương Ðẳng, từ Kinh Phương Ðẳng ra Bát nhã Balamật, từ Bát nhã Balamật ra Ðại Niết Bàn giống như đề hồ. Rằng đề hồ là dụ cho Phật tính mà Phật tính thì tức là Như Lai. Này thiện nam tử! Do nghĩa này nên nói rằng, công đức sở hữu của Như Lai nhiều vô lượng vô biên chẳng thể xưng kể.
Bồ tát Ca Diếp bạch đức Phật rằng:
– Thưa đức Thế Tôn! Như lời đức Phật khen, Kinh Ðại Niết Bàn giống như Ðề hồ tối thượng vi diệu. Nếu có người có thể uống thì mọi bệnh đều tiêu trừ, tất cả các thuốc đều vào trong ấy. Con nghe thế rồi lại trộm suy nghĩ, nếu có người chẳng thể thính thọ Kinh này thì phải biết rằng, người này là kẻ đại ngu si, không có thiện tâm. Thưa đức Thế Tôn! Hôm nay con thật có thể kham nhẫn (chịu nhịn) lột da làm giấy, trích máu làm mực, dùng tủy làm nước, bẻ xương làm bút để ghi chép Kinh Ðại Niết Bàn này, chép rồi đọc tụng cho nhuần nhuyễn (thông lợi) Kinh ấy, rồi nhiên hậu vì người rộng nói nghĩa của Kinh ấy. Thưa đức Thế Tôn! Nếu có chúng sinh tham trước của cải thì con sẽ cho của cải, rồi nhiên hậu dùng Kinh Ðại Niết Bàn này khuyên họ đọc tụng. Nếu người tôn quí thì con trước dùng lời ái ngữ, thuận theo ý của họ, rồi nhiên hậu sẽ dần dần đem Kinh Ðại Thừa Ðại Niết Bàn này khuyên họ đọc tụng. Nếu là hạng dân dã thì con sẽ dùng uy thế ép họ đọc tụng. Nếu là người kiêu mạn thì con sẽ vì người ấy mà làm kẻ sai khiến, thuận theo ý họ khiến cho họ hoan hỷ, rồi nhiên hậu sẽ đem Ðại Bát Niết Bàn mà dạy bảo, dẫn đường cho họ. Nếu có người bài báng Kinh điển Ðại Thừa thì con sẽ dùng thế lực đánh đổ khiến cho họ phục tùng. Họ đã hàng phục rồi nhiên hậu con khuyên đọc tụng Ðại Niết Bàn. Nếu người ưa thích Kinh Ðại Thừa thì đích thân sẽ đến cung kính, cúng dường, tôn trọng, khen ngợi.
Lúc bấy giờ, đức Phật khen Bồ tát Ca Diếp rằng:
– Hay thay! Hay thay! Ông rất yêu thích Kinh điển Ðại Thừa! Tham Kinh Ðại Thừa, thọ Kinh Ðại Thừa, nếm vị Kinh Ðại Thừa, tin, kính, tôn trọng, cúng dường Kinh Ðại Thừa! Này thiện nam tử! Ông nay do nhân duyên thiện tâm này nên sẽ được siêu việt vô lượng vô biên những Ðại Bồ tát nhiều như cát sông Hằng, hiện tại trước mắt được thành Vô Thượng Chánh Ðẳng Chánh Giác. Ông cũng chẳng bao lâu lại sẽ như ta, rộng vì đại chúng diễn nói về Ðại Bát Niết Bàn, Như Lai, Phật tính, Tạng bí mật của lời nói chư Phật… như vậy. Này thiện nam tử! Ðời quá khứ, khi mặt trời Phật chưa xuất hiện, ta vào lúc đó, làm Bà la môn, tu hạnh Bồ tát, có thể thông đạt hết tất cả kinh luận sở hữu của ngoại đạo, tu hành Tịch Diệt, đầy đủ oai nghi. Tâm ấy thanh tịnh, chẳng bị sự phá hoại của dục tưởng ngoại lai sinh ra, diệt lửa sân nhuế, thọ trì pháp Thường Lạc Ngã Tịnh, tìm kiếm khắp cùng Kinh điển Ðại Thừa mà thậm chí chẳng nghe đến tên gọi Phương Ðẳng. Ta vào lúc ấy, trụ ở núi Tuyết, núi ấy thanh tịnh với suối chảy, ao tắm, cây rừng, dược thảo tràn đầy. Ðất ấy nơi nơi xen với đá có dòng nước trong với nhiều những hoa thơm nghiêm sức khắp cùng và nhiều loài chim, bầy thú chẳng thể xưng kể, quả ngọt nhiều thứ khó phân biệt kể ra. Nơi ấy lại có vô lượng rễ ngó sen, rễ ngọt, rễ Thanh mộc hương. Ta vào lúc bấy giờ, một mình ở trong chỗ ấy, chỉ ăn các loại trái cây, ăn rồi buộc lòng tư duy tọa thiền trải qua vô lượng năm cũng chẳng nghe có Như Lai ra đời và tên Kinh Ðại Thừa. Này thiện nam tử! Khi ta tu hạnh khổ như vậy thì Thích Ðề Hoàn Nhân, các trời, người.v.v…lòng rất kinh ngạc quái lạ, mỗi mỗi đều gọi nhau mà nói kệ rằng:
Ðều chung nhau bày chỉ
Trong núi Tuyết sạch trong
Chúa tịch tịnh ly dục
Công đức trang nghiêm vương
Ðã lìa tham, sân, mạn
Ngu si đoạn dứt xong
Miệng mới chưa từng nói
Lời thô ác vân vân…
Lúc bấy giờ, trong chúng có một thiên tử tên là Hoan Hỷ lại nói kệ rằng:
Người ly dục như vậy
Siêng tinh tấn sạch trong
Mà chẳng cầu Ðế Thích
Và địa vị chư thiên.
Người cầu đạo như vậy
Các hạnh khổ tu hành
Người này muốn cầu chỗ
Của Thích Ðề Hoàn Nhân.
Lúc bấy giờ, lại có một vị Tiên Thiên tử liền vì Ðế Thích mà nói kệ rằng:
Kiều Thi Ca thiên chúa
Nghĩ này chẳng nên sanh
Ngoại đạo tu khổ hạnh
Hà tất cầu Ðế Vương.
Nói kệ này rồi, ông lại nói rằng: “Này Kiều Thi Ca! Ở đời có bậc Ðại Sĩ vì chúng sinh nên chẳng tham thân mình, vì muốn lợi ích cho các chúng sinh nên tu đủ thứ khổ hạnh không lường. Như người này thấy những tội lỗi trong sinh tử nên giả sử có thấy trân bảo đầy trong đất đai, núi, rừng, biển cả này cũng chẳng sanh lòng tham trước mà như nhìn thấy nhỗ bãi nước bọt. Như vậy Ðại Sĩ xả bỏ của báu, sự yêu thương vợ con, đầu mắt, não tủy, tay chân, chi tiết, chỗ ở, nhà cửa, voi ngựa, xe cộ, nô tỳ, đồng bộc… cũng chẳng nguyện cầu sinh lên cõi trời mà chỉ cầu cho tất cả chúng sinh được hưởng thụ khoái lạc. Ðúng như sự lý giải của tôi, như vậy là Ðại Sĩ thanh tịnh không nhiễm ô, mọi kết sử hết vĩnh viễn, chỉ muốn cầu Vô Thượng Chánh Ðẳng Chánh Giác”. Thích Ðề Hoàn Nhân lại nói rằng: “Như lời ông nói thì người này là người nhiếp lấy tất cả chúng sinh của thế gian. Này Ðại Tiên! Nếu thế gian này có cây Phật thì có thể trừ diệt rắn độc phiền não của tất cả chư thiên, người đời và A tu la. Nếu những chúng sinh này trụ ở trong bóng mát của cây Phật đó thì những độc phiền não đều bị tiêu diệt hết. Này Ðại Tiên! Người này nếu trong đời vị lai làm bậc Thiện Thệ thì chúng ta đều sẽ được diệt hết vô lượng phiền não cháy rực. Việc như vậy thật là khó tin. Vì sao vậy? Vì vô lượng trăm ngàn những chúng sinh.v.v… phát tâm Vô Thượng Chánh Ðẳng Chánh Giác, thấy chút duyên nhỏ đối với Vô Thượng Chánh Ðẳng Chánh Giác nên liền động chuyển. Như trăng trong nước, hễ nước động thì động theo, giống như vẽ tượng, khó thành mà dễ hư hoại, tâm Bồ Ðề cũng lại như vậy, khó phát mà dễ hoại. Này Ðại Tiên! Như có nhiều người dùng áo giáp đồng, binh khí tự trang bị chắc chắn, muốn tiến tới trước thảo trừ giặc mà lâm trận sợ hãi liền thoái lui tan rã. Vô lượng chúng sinh cũng lại như vậy, phát tâm Bồ Ðề, tự trang bị bền chắc, nhưng thấy tội lỗi sinh tử nên lòng sinh sợ hãi liền thoái lui, tiêu tan. Này Ðại Tiên! Tôi thấy vô lượng chúng sinh như vậy, sau khi phát tâm Bồ Ðề đều sinh ra động chuyển. Vậy nên tôi nay tuy thấy người này tu khổ hạnh, không não, không nhiệt, trụ ở hiểm đạo, hạnh người ấy thanh tịnh nhưng chưa có thể tin vậy. Tôi nay cần phải tự đến đó thử thách để biết người ấy có thật có thể đủ sức gánh vác gánh rất nặng Vô Thượng Chánh Ðẳng Chánh Giác không? Này Ðại Tiên! Giống như xe có hai bánh thì có thể sử dụng chuyên chở, con chim có hai cánh thì đủ sức bay đi, khổ hạnh này cũng lại như vậy, tôi tuy thấy người ấy kiên trì cấm giới, nhưng chưa biết người ấy có thâm trí không. Nếu có thâm trí thì sẽ biết người ấy có thể đủ sức gánh vác gánh nặng Vô Thượng Chánh Ðẳng Chánh Giác. Thưa ÐạiTiên! Ví như mẹ cá có nhiều trứng cá nhưng thành tựu cá thì ít. Như hoa của cây Am La thì nhiều mà thành trái thì ít. Chúng sinh phát tâm có đến vô lượng và số thành tựu ấy thì ít, chẳng đủ nói. Này Ðại Tiên! Tôi cùng ông đều đến thử thách ông ấy! Ví như vàng ròng, sau ba lần thử rồi mới biết vàng ấy chân thật, là đốt, đập, mài. Thử thách người khổ hạnh kia thì cũng phải như vậy”.
Lúc bấy giờ, Thích Ðề Hoàn Nhân tự biến thân mình làm hình dáng La sát, thân hình rất đáng sợ, xuống đến núi Tuyết, cách người tu ấy chẳng xa liền đứng lại. Lúc đó, La sát lòng không chút sợ hãi, mạnh mẽ khó đương, biện tài theo thứ lớp. Tiếng La sát ấy rất thanh nhã tuyên nói nửa bài kệ mà Phật đời quá khứ đã nói:
Các hạnh vô thường
Là pháp sinh diệt.
Nói nửa bài kệ này rồi, La sát liền đứng trước người tu hành ấy, thị hiện hình mạo rất đáng kinh sợ, quay đầu liếc khắp, nhìn xem bốn phương. Người khổ hạnh này nghe nửa bài kệ đó, lòng sinh ra vui mừng. Ví như khách buôn ở chỗ hiểm nạn, đi đêm lạc bạn, sợ hãi tìm kiếm, gặp lại được bạn đồng hành mà lòng sinh ra vui mừng, nhảy nhót không lường. Cũng như người bệnh lâu mà chưa gặp lương y xem bệnh, cho thuốc tốt, về sau bỗng nhiên được gặp, như người chìm trong biển bỗng gặp thuyền bè, như người khát gặp nước trong mát, như người bị kẻ oán truy đuổi bỗng nhiên được giải thoát, như người bị trói buộc lâu bỗng nghe được thả ra, cũng như người nông phu đang bị hạn hán gặp được mưa, cũng như người đi trở về, được về, người nhà thấy rồi sinh ra đại hoan hỷ. Này thiện nam tử! Bấy giờ ta nghe nửa câu kệ này rồi trong lòng vui mừng cũng lại như vậy, liền đứng dậy dùng tay vén tóc, quay nhìn bốn phương rồi hướng về chỗ nghe kệ mà nói rằng: “Lời nói của ai đó?” Bấy giờ, ta cũng lại chẳng thấy còn ai khác, chỉ thấy La sát, liền nói rằng: “Ai mở cánh cửa Giải thoát như vậy? Ai có thể nổi sấm âm thanh của chư Phật? Ai ở trong giấc ngủ sinh tử mà một mình tỉnh thức xướng lên lời như vậy? Ai có thể ở đây hiển thị dắt dẫn chúng sinh cơ cẩn sinh tử được đạo vị Vô thượng? Vô lượng chúng sinh chìm trong biển sinh tử mà ai có thể ở trong đó làm bậc Ðại thuyền sư? Những chúng sinh này thường bị sự ràng buộc của bệnh nặng phiền não mà ai có thể ở trong họ làm lương y? Người nói nửa bài kệ này đã khai ngộ lòng ta giống như nửa tháng hoa sen nở dần dần”. Này thiện nam tử! Vào lúc bấy giờ, ta lại không thấy gì, chỉ thấy có La sát, lại nghĩ rằng: “Chắc là La sát nói kệ này ư?” Ta lại sinh nghi hoặc: “Chẳng phải là La sát ấy nói sao?’ Vì sao vậy? Vì người này hình dung rất đáng kinh sợ. Nếu có người được nghe câu kệ này thì tất cả sự xấu xí kinh tởm liền trừ hết mà sao người này có hình mạo như vậy lại có thể nói bài kệ này? Chẳng ứng trong lửa mọc ra hoa sen, chẳng phải trong ánh sáng mặt trời sinh ra nước lạnh đó sao?” Này thiện nam tử! Vào lúc bấy giờ, ta lại nghĩ rằng: “Ta nay vô trí mà La sát này hoặc có thể được thấy các đức Phật quá khứ và từ chỗ các đức Phật nghe được nửa câu kệ này. Ta nay phải hỏi”. Ta liền đến trước chỗ La sát đó mà nói như vầy: “Hay thay! Thưa Ðại sĩ! Ở đâu mà ông được lời nói nửa bài kệ của bậc Ly Bố Úy đời quá khứ này? Thưa Ðại sĩ! Ở đâu mà ông lại được nửa viên ngọc Như Ý như vậy! Thưa Ðại sĩ! Nghĩa của nửa câu kệ này là chánh đạo của các đức Phật Thế Tôn quá khứ, vị lai và hiện tại vậy. Tất cả thế gian, chúng sinh nhiều không lường thường bị sự che phủ của màn lưới các kiến, trọn đời ở trong pháp ngoại đạo này, ban đầu chẳng được nghe lời nói “không nghĩa” của đấng Thập Lực Thế Hùng ra khỏi thế gian như vậy”. Này thiện nam tử! Ta hỏi rồi thì La sát liền đáp lời ta rằng: “Này Ðại Bàlamôn! Ông nay chẳng nên hỏi ta ý nghĩa đó! Vì sao vậy? Vì ta chẳng ăn đến nay đã trải qua nhiều ngày, tìm kiếm khắp nơi nơi mà chẳng thể được, đói khát khổ não, lòng rối loạn, nói xằng bậy, chẳng phải là sự hiểu biết của bản tâm ta. Ta nay, sức có thể bay đi trong hư không để đến cõi Uất Ðan Việt… cho đến lên cõi trời. Nhưng ở khắp nơi nơi tìm thức ăn cũng chẳng thể được. Do nghĩa này nên ta nói lời nói đó!” Ta liền nói với La sát rằng: “Này Ðại sĩ! Nếu ngài có thể vì tôi nói hết bài kệ này thì tôi sẽ trọn đời làm đệ tử của ngài! Thưa Ðại sĩ! Lời nói của ông thì tên gọi chẳng trọn, ý nghĩa cũng chẳng hết. Vì nhân duyên gì mà chẳng muốn nói vậy? Phàm tài thí thì có cạn kiệt hết, còn nhân duyên pháp thí chẳng thể hết vậy. Pháp thí vô tận đem nhiều lợi ích, ta nay nghe nửa bài kệ này rồi, lòng sinh ra kinh nghi. Ngài nay may mắn có thể vì tôi đoạn trừ cho mà nói trọn bày kệ này, tôi sẽ trọn đời làm đệ tử của ngài”. La sát đáp rằng: “Trí ông lớn quá chỉ tự lo cho thân mà quên chẳng thấy nghĩ đến ta đang bị sự bức bách của đói khổ, thật chẳng thể nói được”. Ta liền hỏi rằng: “Ðồ ăn của ngài là những vật gì?” La sát đáp rằng: “ Ông chẳng hỏi lắm! Nếu ta nói thì khiến cho nhiều người sợ!” Ta lại hỏi rằng: “Trong này là chỗ riêng, lại không có người mà tôi thì chẳng sợ, vì sao ngài chẳng nói?” La sát đáp rằng: “Ðồ ăn của ta chỉ là thịt ấm (còn nóng) của người còn đồ uống thì chỉ là máu nóng của người! Tự ta bạc phước chỉ ăn đồ này mà khốn đốn tìm kiếm cùng khắp chẳng thể được. Ðời tuy có nhiều người nhưng họ đều có phước đức, lại thêm sự thủ hộ của chư Thiên mà ta không có sức nên chẳng thể giết được”. Này thiện nam tử! Ta lại nói rằng: “Ngài chỉ nói đầy đủ nửa thiếu của bài kệ này, tôi nghe kệ rồi sẽ đem thân này dâng cúng dường ngài! Thưa Ðại sĩ! Giả sử tôi mạng chung, như tấm thân này không dùng vào việc gì nữa mà sẽ bị sự ăn nuốt của cọp, sói, cú vọ, diều hâu… nhưng lại chẳng được một chút phước đức. Tôi này vì cầu Vô Thượng Chánh Ðẳng Chánh Giác, bỏ thân chẳng bền chắc để đổi thân bền chắc”. La sát đáp rằng: “Ai sẽ tin lời nói như vậy của ông! Vì tám chữ mà bỏ thân yêu thích!” Này thiện nam tử! Ta liền đáp rằng: “Ngài quả thật là không trí! Ví như có người cho người khác đồ sành mà được đồ bằng bảy báu. Tôi cũng như vậy, bỏ thân chẳng bền chắc mà được thân Kim cương. Ngài nói rằng, ai sẽ tin thì tôi nay đã có chứng! Vua trời Ðại Phạm, Thích Ðề Hoàn Nhân và vua bốn trời có thể chứng việc này. Lại có những Bồ tát thiên nhãn vì muốn lợi ích cho vô lượng chúng sinh nên tu hành Ðại Thừa đủ lục độ, cũng có thể chứng biết. Lại có các đức Phật Thế Tôn của mười phương lợi cho chúng sinh cũng có thể chứng cho tôi vì tám chữ nên bỏ thân mạng này”. La sát lại nói rằng: “Ông nếu có thể xả thân như vậy thì hãy lắng nghe! Lắng nghe! Ta sẽ vì ông nói nửa bài kệ còn lại ấy”. Này thiện nam tử! Ta vào lúc bấy giờ, nghe lời nói này rồi trong lòng vui mừng, liền cởi tấm da nai mặc trên thân mình, vì La sát này trải làm pháp tòa mà bạch rằng: “Thưa Hòa thượng! Mời Hòa thượng ngồi nơi tòa này. Ta liền vòng tay quỳ gối thưa rằng: Ngài khéo vì tôi nói nửa bài kệ còn lại ấy cho được đầy đủ!” La sát liền nói rằng:
Sinh diệt diệt xong
Là vui Tịch tịnh.
La sát bấy giờ nói kệ này xong rồi, lại nói rằng: “Này Ðại Bồ tát! Ông nay đã nghe đầy đủ nghĩa bài kệ. Sở nguyện của ông đã được thỏa mãn, chắc chắn muốn được lợi cho chúng sinh thì bố thí thân cho ta đi!” Này thiện nam tử! Ta vào lúc ấy, nghĩ sâu ý nghĩa này, rồi nhiên hậu ghi chép bài kệ này vào khắp nơi nơi, hoặc trên đá, hoặc trên vách, hoặc trên cây, hoặc trên đường. Ta liền buộc lại quần áo đang mặc vì sợ sau khi chết, thân thể bị lộ hiện, rồi leo lên cây cao. Lúc bấy giờ, thần cây lại hỏi ta rằng: “Hay thay! Ngài muốn làm việc gì?” Này thiện nam tử! Ta liền đáp rằng: “Ta muốn xả thân để báo đền giá trị bài kệ!” Thần cây hỏi rằng: “Như vậy bài kệ có lợi ích gì?” Ta đáp rằng: “Bài kệ như vậy là lời nói khai thị đạo pháp không của các đức Phật quá khứ, vị lai và hiện tại. Ta vì pháp này mà xả bỏ thân mạng. Ta chẳng vì lợi dưỡng, tiếng tăm, của báu, Chuyển Luân Thánh Vương, Tứ Ðại Thên Vương, Thích Ðề Hoàn Nhân, Ðại Phạm Thiên Vương, niềm vui trong trời, người mà vì muốn lợi ích cho tất cả chúng sinh nên xả thân này!” Này thiện nam tử! Khi ta xả thân này, lại nói rằng: “Nguyện cho tất cả người san tham tiếc rẻ đều đến thấy ta lìa bỏ thân này. Nếu có người ít bố thí, khởi cống cao thì cũng khiến cho được thấy ta xả thân mạng này vì một bài kệ như bỏ cỏ cây”. Vào lúc bấy giờ, ta nói lời này xong, liền buông thân gieo mình xuống dưới cây. Khi rơi xuống chưa đến đất thì trong hư không phát ra đủ thứ âm thanh. Những âm thanh ấy vang đến tận trời A Ca Ni Sấc. Lúc bấy giờ, La sát trở lại thân hình Ðế Thích, liền ở trong không, tiếp lấy thân ta, đặt yên xuống đất bằng. Bấy giờ, Thích Ðề Hoàn Nhân và những người trời, Ðại Phạm Thiên Vương cúi đầu đảnh lễ ở dưới chân ta mà khen rằng: “Hay thay! Hay thay! Chân thật là Bồ tát có thể đem lợi ích lớn cho vô lượng chúng sinh, muốn ở trong vô minh đen tối thắp ngọn đuốc Ðại Pháp! Ta do yêu tiếc Ðại Pháp của Như Lai nên nhiễu hại nhau! Nguyện xin cho ta sám hối tội lỗi! Ngài vào đời vị lai nhất định thành tựu Vô Thượng Chánh Ðẳng Chánh Giác! Nguyện xin được tế độ!” Lúc bấy giờ, Thích Ðề Hoàn Nhân và các thiên chúng đảnh lễ dưới chân ta. Ðến đây, họ giả từ ra đi, bỗng nhiên biến mất. Này thiện nam tử! Như ta thuở xưa vì một nửa bài kệ nên xả bỏ thân này. Do nhân duyên đó nên liền được vượt qua đủ mười hai kiếp, rồi thành Vô Thượng Chánh Ðẳng Chánh Giác trước Bồ tát Di Lặc. Này thiện nam tử! Ta được vô lượng công đức như vậy là đều do cúng dường chánh pháp của Như Lai. Này thiện nam tử! Ông nay cũng vậy, phát tâm Vô Thượng Chánh Ðẳng Chánh Giác thì đã vượt lên trên vô lượng vô biên những Bồ tát nhiều như cát sông Hằng. Này thiện nam tử! Ðó gọi là Bồ tát trụ ở Ðại Thừa Ðại Bát Niết Bàn tu Thánh hạnh.
KINH ÐẠI BÁT NIẾT BÀN
– Quyển thứ mười ba hết –