1
2
3
4
5
6
7
8
9
10
11
12
13
14
15
16
17
18
19
20
21
22
23
24
25
26
27
28
29
30
31
32
33
34
35
36

Quyển thứ 21

22. PHẨM BỒ TÁT QUANG MINH BIẾN CHIẾU CAO QUÍ ÐỨC VƯƠNG PHẦN 3

Lại nữa, này thiện nam tử! Kẻ phàm phu nếu gặp thân tâm khổ não thì khởi lên đủ thứ ác. Nếu bị thân bệnh hay bị tâm bệnh thì khiến cho thân miệng ý tạo tác đủ thứ ác. Do tạo tác ác nên luân chuyển trong ba đường, chịu đủ các khổ. Vì sao vậy? Vì người phàm phu không có niệm tuệ. Vậy nên họ sinh ra đủ thứ những lậu; đó gọi là niệm lậu. Ðại Bồ tát thường tự suy nghĩ rằng: “Ta từ thuở xa xưa, vô số kiếp đến nay, vì chính thân tâm này tạo ra đủ thứ ác. Do nhân duyên này nên lưu chuyển sinh tử ở tại ba đường ác, chịu đủ mọi thứ khổ, khiến cho ta rời xa chánh lộ Tam Thừa”. Bồ tát do nhân duyên ác này nên đối với thân tâm mình sinh ra rất kinh sợ, lìa bỏ mọi nẻo ác, hướng về đường thiện. Này thiện nam tử! Ví như có vị vua đem bốn con rắn độc đựng trong một cái hòm nhỏ, sai người nuôi dưỡng trông nom, ngủ dậy xoa rửa thân chúng. Nếu khiến cho một con rắn nỗi giận thì vua sẽ theo đúng pháp giết chết nơi đô thị. Lúc bấy giờ, người ấy nghe lệnh bức thiết của vua thì lòng sinh hoảng sợ, bỏ cái hòm nhỏ, chạy trốn. Nhà vua lại sai năm người Chiên đà la vung đao đuổi theo. Người ấy quay nhìn lại thấy năm người đuổi theo sau thì bỏ chạy nhanh hơn. Lúc đó, năm người dùng phương tiện ác, che giấu việc cầm dao kín đáo, sai một người trá làm thân thiện mà nói với kẻ trốn đó rằng: “Ông nên trở về lại!” Người ấy chẳng tin, lao vào một tụ lạc (thôn xóm), muốn ẩn kín mình. Ðã vào trong xóm rồi, người ấy nhìn thấy mọi nhà đều chẳng thấy người, cầm các dụng cụ đựng đồ lên xem đều không có vật. Ðã chẳng thấy người, tìm vật chẳng được, người ấy liền ngồi xuống đất thì nghe tiếng trong hư không rằng: “Hỡi ôi! Này nam tử! Xóm này trống rỗng, không có dân xư, đêm nay sẽ có sáu tên giặc lớn đến mà giả sử ngươi gặp phải thì mạng sẽ chẳng toàn. Ông sẽ làm sao mà được khỏi?” Lúc bấy giờ, nỗi kinh sợ của người ấy liền tăng thêm, người ấy lại bỏ đi. Trên đường đi, người ấy lại gặp một dòng sông mà nước sông chảy mạnh, lại không có thuyền bè. Vì kinh sợ nên người ấy liền lấy đủ thứ cỏ cây làm bè và lại suy nghĩ rằng: “Ta giả sử đứng ở đây thì sẽ bị năm Chiên đà la rắn độc mà một tên trá giả thân thiện và sự nguy hại của sáu tên giặc lớn. Nếu qua sông này mà bè chẳng thể nương nhờ thì ta sẽ phải chìm chết dưới nước. Ta thà chìm chết dưới nước, nhất định chẳng để bị hại do rắn độc và giặc kia”. Người ấy liền đẩy bè cỏ đặt vào trong nước, thân dựa trên bè ấy, vận động tay chân, cắt dòng nước chảy mà đi. Ðã đến bờ bên kia rồi, người ấy yên ổn, không còn hoạn nạn, lòng dạ hanh thông, sợ hãi tiêu trừ.

Ðại Bồ tát được nghe, thọ trì Kinh Ðại Niết Bàn, quán thân như cái hòm nhỏ, đất nước lửa gió như bốn con rắn độc. Thấy độc, chạm độc, hơi độc, cắn độc, tất cả chúng sinh gặp bốn thứ độc này nên mất mạng. Bốn đại của chúng sinh cũng lại như vậy, hoặc thấy là ác, hoặc chạm là ác, hoặc hơi là ác, hoặc cắn là ác. Do những nhân duyên này nên xa lìa mọi thiện. Lại nữa, này thiện nam tử! Ðại Bồ tát quan sát bốn con rắn độc có bốn dòng giống là Sát Lợi, Bà la môn, Tỳ xá, Thủ đà. Rắn bốn đại này cũng lại như vậy, có bốn thứ tính là tính cứng, tính ẩm ướt, tính nóng, tính động. Vậy nên bốn đại cùng bốn độc xà đồng chung chủng tính ấy. Lại nữa, này thiện nam tử! Ðại Bồ tát quán bốn đại này như bốn con rắn độc. Sao gọi là quán? Bốn con rắn độc này thường rình rập tiện nghi của con người, khi nào phải nhìn? Khi nào phải chạm? Khi nào phải hà hơi? Khi nào phải cắn? Rắn độc bốn đại cũng lại như vậy, thường rình rập chúng sinh tìm cầu sở đoản, khuyết lậu của họ. Nếu bị sự giết hại của bốn con rắn độc thì nhất định chẳng đến ở trong ba đường ác, còn nếu bị sự giết hại của bốn đại thì ắt đến ba đường ác, chẳng có gì nghi ngờ. Bốn con rắn độc này tuy lại được trông nom nuôi dưỡng nhưng cũng muốn giết người. Bốn đại cũng vậy, tuy thường được cung cấp nhưng cũng thường dẫn dắt con người làm mọi việc ác. Bốn con rắn độc này, nếu một con giận lên thì có thể giết người. Tính bốn đại cũng lại như vậy, nếu một đại phát ra cũng có thể hại người. Bốn con rắn độc này tuy ở đồng một chỗ nhưng bốn tâm đều khác nhau. Rắn độc bốn đại cũng lại như vậy, tuy đồng một chỗ nhưng tính đều khác biệt. Bốn con rắn độc này tuy lại cung kính nhưng khó có thể thân cận. Rắn độc bốn đại cũng lại như vậy, tuy lại cung kính nhưng cũng khó thân cận. Bốn con rắn độc này nếu khi hại người mà hoặc có Sa môn, Bà la môn.v.v… dùng chú hay thuốc thì có thể trị liệu được. Bốn đại giết người, tuy có Sa môn, Bà la môn.v.v… dùng thần chú, thuốc hay đều chẳng thể trị liệu. Như người tự vui lòng nghe hơi hám bốn con độc xà có thể gớm thì liền xa lìa. Các đức Phật, Bồ tát cũng lại như vậy, nghe mùi bốn đại thìliền lìa xa. Bấy giờ, Bồ tát lại suy nghĩ về rắn độc bốn đại, rồi sinh ra rất kinh sợ, quay lưng chạy nhanh, lo tu tám Thánh đạo.

Chiên đà la tức là năm ấm. Sao gọi là Bồ tát quán năm ấm như Chiên đà la? Người Chiên đà la thường hay khiến cho con người ân ái, biệt ly, oán tắng, tập hội. Năm ấm cũng vậy, khiến cho con người tham lam, thân cận với pháp bất thiện, xa lìa tất cả pháp thuần thiện. Lại nữa, này thiện nam tử! Như Chiên đà la tự trang nghiêm đủ thứ binh khí như dao, hoặc thuẩn, hoặc cung, hoặc tên, hoặc áo giáp đồng, hoặc giáo dài… để có thể hại người. Năm ấm cũng vậy, dùng các phiền não tự trang nghiêm chắc chắn, hại những người si dại, khiến cho họ rơi vào các cõi hữu. Này thiện nam tử! Như Chiên đà la có người lỗi là được dịp hại họ. Năm ấm cũng vậy, có những lỗi kết là thường có thể hại người. Vậy nên Bồ tát quán sâu năm ấm như Chiên đà la. Lại nữa, Bồ tát quán sát năm ấm như Chiên đà la. Người Chiên đà la không có lòng từ mẫn, kẻ oán người thân đều hại. Năm ấm cũng vậy, không có lòng từ mẫn thiện ác đều hại. Như Chiên đà la làm não lòng tất cả mọi người. Năm ấm cũng vậy, do những phiền não thường làm não lòng tất cả chúng sinh sinh tử. Vậy nên Bồ tát quán năm ấm như Chiên đà la. Lại nữa, Bồ tát quan sát năm ấm như Chiên đà la. Người Chiên đà la thường ôm lòng hại. Năm ấm cũng vậy, thường mang các kết sử não hại trong lòng. Như người mà không có chân, dao, gậy, thị tùng thì phải biết nhất định bị sự giết hại của người Chiên đà la. Chúng sinh cũng vậy, không có chân, dao, không có thị tùng thì bị sự giết hại của năm ấm. Chân gọi là giới, dao gọi là tuệ, thị tùng gọi là thiện tri thức vậy. Không có ba việc này nên bị sự giết hại của năm ấm. Vậy nên Bồ tát quán năm ấm như Chiên đà la. Lại nữa, này thiện nam tử! Ðại Bồ tát quan sát năm ấm quá hơn Chiên đà la. Vì sao vậy? Vì nếu chúng bị sự giết hại của Chiên đà la thì chẳng rơi vào địa ngục, còn người bị năm ấm giết thì rơi vào địa ngục. Do nghĩa này nên Bồ tát quán năm ấm quá hơn Chiên đà la. Bồ tát tác khởi sự quan sát này rồi mà phát nguyện rằng: “Ta thà trọn đời gần Chiên đà la, chẳng thể tạm thời gần gũi năm ấm”. Người Chiên đà la chỉ có thể hại người ngu si của cõi Dục, còn giặc năm ấm này hại khắp chúng sinh phàm phu của ba cõi. Người Chiên đà la chỉ có thể giết chết người có tội, còn giặc năm ấm chẳng hỏi chúng sinh có tội hay không tội, đều có thể hại hết. Người Chiên đà la chẳng hại người già yếu, phụ nữ, trẻ con, còn giặc năm ấm này chẳng cần hỏi chúng sinh ai già cả, phụ nữ, trẻ con yếu đuối, tất cả đều hại hết. Vậy nên Bồ tát quan sát sâu năm ấm này quá hơn Chiên đà la. Vậy nên Bồ tát phát nguyện rằng, thà phải trọn đời gần Chiên đà la, chẳng thể tạm thời gần gũi năm ấm. Lại nữa, này thiện nam tử! Người Chiên đà la chỉ hại người khác, nhất định chẳng hại mình. Giặc năm ấm thì hại mình và hại cả người khác. Người Chiên đà la có thể dùng lời nói tốt, tiền tài, của báu để cầu xin mà được thoát. Năm ấm chẳng vậy, chẳng thể miễn cưỡng dùng lời nói khéo, dụ dỗ, tiền tài, của báu để cầu mà được thoát. Người Chiên đà la ở trong tứ thời (bốn mùa), chẳng nhất định phải thường giết hại. Năm ấm chẳng vậy, luôn ở trong từng niệm, từng niệm hại chúng sinh. Người Chiên đà la chỉ ở tại một chỗ nên có thể chạy trốn. Năm ấm chẳng vậy, ở khắp mọi chỗ nên không thể chạy trốn. Người Chiên đà la tuy lại hại người, hại mình rồi nhưng chẳng theo đuổi. Năm ấm chẳng vậy, giết hại chúng sinh rồi còn theo đuổi chẳng rời. Vậy nên Bồ tát thà trọn đời gần Chiên đà la, chẳng thể tạm thời gần gũi năm ấm. Người có trí dùng phương tiện khéo léo được thoát khỏi năm ấm. Phương tiện khéo léo tức là tám Thánh đạo, sáu Ba la mật, bốn Vô lượng tâm… Nhờ phương tiện này mà kẻ trí được Giải thoát, thân tâm chẳng bị sự giết hại của năm ấm. Vì sao vậy? Vì thân như Kim Cương, lòng như hư không. Vậy nên thân tâm khó có thể ngăn trở, hủy hoại. Do nghĩa này nên Bồ tát quan sát thấy ấm thành tựu đủ thứ những pháp bất thiện nên sinh ra rất kinh sợ mà tu tám Thánh đạo. Cũng như người kia sợ bốn con rắn độc, năm Chiên đà la mà lặn lội trên đường, đi không quay nhìn lại.

Người trá thân thiện thì gọi là tham ái. Ðại Bồ tát quán sâu ái kết như kẻ oán trá hiện người thân. Nếu biết người thật thì không thể làm gì, nếu chẳng biết thì nhất định bị hại. Tham ái cũng vậy, nếu biết tính chúng thì chẳng thể khiến cho chúng sinh luân chuyển trong sinh tử, như chẳng biết tính ấy thì luân chuyển sáu đường, chịu đủ mọi khổ. Vì sao vậy? Vì ái là bệnh khó lìa bỏ như kẻ oán trá hiện người thân khó có thể xa lìa. Kẻ oán trá hiện thân thiện thường rình rập tiện nghi của con người, khiến cho họ ái biệt ly, oán tắng hợp hội. Ái cũng như vậy, khiến cho con người xa lìa tất cả thiện pháp, gần gũi với tất cả pháp bất thiện. Do nghĩa này nên Ðại Bồ tát quán sâu tham ái như oán trá hiện thân thiện. Thấy chẳng thấy, nghe chẳng nghe thì như người phàm phu thấy lỗi sinh tử, tuy có trí tuệ nhưng vì ngu si che phủ nên về sau trở lại chẳng thấy. Thanh Văn, Duyên Giác cũng lại như vậy, tuy thấy nhưng chẳng thấy, tuy nghe nhưng chẳng nghe. Vì sao vậy? Vì do tâm ái vậy. Sở dĩ vì sao? Vì thấy lỗi sinh tử nhưng chẳng thể mau chóng đến được Vô Thượng Chánh Ðẳng Chánh Giác. Do nghĩa này nên Ðại Bồ tát quán ái kết này như oán trá hiện thân thiện. Sao gọi là tướng oán trá hiện thân thiện? Như oán, chẳng thật mà trá hiện tướng thật, chẳng thể thân cận mà trá hiện tướng thân cận, thật là chẳng thiện mà trá hiện tướng thiện, thật là chẳng ái mà trá hiện tướng ái (yêu). Vì sao vậy? Vì luôn rình rập tiện nghi của con người muốn làm hại họ. Ái cũng như vậy, thường vì chúng sinh, chẳng phải thật mà trá hiện thật, chẳng phải thân cận mà trá hiện thân cận, chẳng phải thiện mà trá hiện thiện, chẳng phải ái mà trá hiện ái… luôn lừa dối tất cả sinh tử luân hồi. Do nghĩa này nên Bồ tát quan sát ái như oán trá hiện thân thiện. Kẻ oán trá hiện thân thiện thì chỉ thấy thân miệng, chẳng nhìn thấy lòng họ. Vậy nên họ có thể lừa dối. Ái cũng như vậy, chỉ là hư dối, thật chẳng thể được. Vậy nên có thể mê hoặc tất cả chúng sinh. Kẻ oán trá hiện thân thiện thì có thỉ có chung, dễ có thể xa ìa. Ái chẳng như vậy, không thỉ không chung, khó có thể lìa xa. Kẻ oán trá hiện thân thiện ở xa thì khó biết, đến gần thì dễ biết. Ái chẳng như vậy, gần còn khó biết, huống lại là xa vậy? Do nghĩa này nên Bồ tát quán ái quá hơn oán trá hiện thân thiện. Tất cả chúng sinh do ái kết nên xa Ðại Niết Bàn, gần với sinh tử, xa Thường – Lạc – Ngã – Tịnh, gần vô thường – khổ – vô ngã – bất tịnh. Vậy nên ta, ở mọi chỗ trong Kinh, nói là ba cấu đối với việc hiện tại do vô minh, chẳng thấy lỗi hoạn thì chẳng thể lìa bỏ. Oán ái mà trá hiện thân thiện nhất định chẳng thể hại người có trí. Vậy nên Bồ tát quán sâu ái này thì sinh ra kinh sợ mà tu tám Thánh đạo giống như người kia sợ bốn con rắn độc, năm Chiên đà la và một người trá hiện thân thiện mà lặn lội trên đường, đi chẳng trở lại.

Tụ lạc trống không tức là sáu nhập bên trong. Ðại Bồ tát quán sáu nhập này rỗng không, không sở hữu, giống như tụ lạc trống rỗng, như người sợ kia đã vào tụ lạc rồi thì thậm chí chẳng thấy có một người ở, tìm trong đồ đựng chẳng được một vật gì. Bồ tát cũng vậy, quan sát kỹ càng sáu nhập trống rỗng, không sở hữu, chẳng thấy cái thật của một vật chúng sinh. Vậy nên Bồ tát quan sát sáu nhập bên trong trống rỗng, không sở hữu như tụ lạc trống rỗng kia. Này thiện nam tử! Tụ lạc trống rỗng kia, bọn giặc trông ngóng từ xa nhất định chẳng sinh ra tư tưởng rỗng không. Người phàm phu cũng lại như vậy, đối với tụ lạc sáu nhập chẳng sinh không tưởng. Do họ chẳng thể sinh không tưởng nên sinh tử luân hồi, chịu khổ không lường. Này thiện nam tử! Bọn giặc đã đến nơi mới sinh ra không tưởng. Bồ tát cũng vậy, quan sát sáu nhập này thường sinh ra không tưởng, sinh ra không tưởng thì chẳng sinh tử luân hồi, chịu khổ. Ðại Bồ tát đối với sáu nhập này thường không điên đảo. Không điên đảo nên chẳng lại sinh tử luân hồi. Lại nữa, này thiện nam tử! Như có bọn giặc vào tụ lạc trống rỗng này thì được an vui. Các giặc phiền não cũng lại như vậy, vào sáu nhập này thì được an vui. Như giặc trụ ở tụ lạc trống rỗng, lòng không sở úy. Bọn giặc phiền não cũng lại như vậy, trụ ở sáu nhập này cũng không sở úy, như tụ lạc trống rỗng kia mới là chỗ ở của sư tử, cọp sói… đủ thứ ác thú. Nội lục nhập này cũng lại như vậy, là chỗ trụ của tất cả ác thú mọi phiền não ác. Vậy nên Bồ tát quán sâu sáu nhập rỗng không, không sở hữu, thuần là chỗ trú của tất cả điều bất thiện. Lại nữa, này thiện nam tử! Ðại Bồ tát quan sát nội lục nhập rỗng không, không sở hữu như tụ lạc trống rỗng kia. Vì sao vậy? Vì xử sự lừa dối chẳng thật, rỗng không không sở hữu mà tác khởi tư tưởng “có” vậy. Thật không có vui mà tác khởi lạc tưởng, thật không có người mà tác khởi nhân tưởng. Nội lục nhập cũng lại như vậy, rỗng không không sở hữu mà tác khởi hữu tưởng, thật không có vui mà tác khởi lạc tưởng, thật không có người mà tác khởi nhân tưởng. Chỉ có người trí mới có thể biết được sự chân thật ấy. Lại nữa, này thiện nam tử! Như tụ lạc trống rỗng, hoặc khi có người, hoặc khi không có người. Sáu nhập chẳng vậy, chỉ một hướng là không người. Vì sao vậy? Vì tính luôn rỗng không. Sự nhận biết của người trí chẳng phải là mắt thấy. Vậy nên Bồ tát quan sát nhiều những oán hại của nội lục nhập mà tu tám Thánh đạo chẳng ngưng, chẳng nghỉ, giống như người kia sợ bốn con rắn độc, năm người Chiên đà la, một kẻ trá hiện thân thiện và sáu tên đại tặc mà mãi miết theo đường chính.

Sáu đại tặc tức là sáu trần bên ngoài (ngoại lục trần). Ðại Bồ tát quan sát sáu trần này như sáu tên đại tặc. Vì sao vậy? Vì nó có thể cướp tất cả các thiện pháp, như sáu tên đại tặc có thể cướp tất cả của báu của nhân dân. Giặc sáu trần này cũng lại như vậy, có thể cướp tất cả của cải thiện của chúng sinh. Như sáu tên đại tặc, nếu vào nhà người thì có thể cướp đoạt sở hữu của nhà hiện có, chẳng phân biệt tốt xấu, khiến cho người cự phú bỗng nhiên thành bần cùng. Giặc lục trần này cũng lại như vậy, nếu vào căn (cơ quan) của người thì cũng có thể cướp đoạt tất cả thiện pháp. Thiện pháp đã hết thì trở nên bần cùng cô lộ, thành nhất xiển đề. Vậy nên Bồ tát quan sát chắc chắn sáu trần như sáu tên đại tặc. Lại nữa, này thiện nam tử! Như sáu tên đại tặc khi muốn cướp đoạt của người thì cốt yếu nhờ người ở bên trong. Nếu không người bên trong thì liền trở về không. Giặc sáu trần này cũng lại như vậy, muốn cướp thiện pháp cốt nhờ bên trong có chúng sinh thấy biết tướng Thường – Lạc – Ngã – Tịnh, chẳng rỗng không.v.v… Nếu bên trong không có những tướng như vậy thì giặc ác sáu trần chẳng thể cướp được tất cả thiện pháp. Người có trí bên trong không có tướng này mà kẻ phàm phu thì có. Vậy nên sáu trần thường đến chiếm đoạt của cải thiện pháp. Vì chẳng khéo hộ trì nên kẻ phàm phu bị sự cướp đoạt ấy. Cái để hộ trì gọi là tuệ. Người có trí có thể khéo phòng hộ nên chẳng bị cướp. Vậy nên Bồ tát quán sáu trần này như sáu tên đại tặc ngang bằng không sai khác. Lại nữa, này thiện nam tử! Như sáu tên đại tặc có thể làm cho thân tâm nhân dân khổ não. Giặc sáu trần này cũng lại như vậy, thường làm cho thân tâm chúng sinh khổ não. Sáu tên đại tặc thì chỉ có thể cướp tài vật hiện tại của con người, còn giặc sáu trần này thường cướp thiện tài của chúng sinh ba đời. Sáu tên đại tặc, ban đêm thì vui sướng. Giặc ác sáu trần này cũng lại như vậy, ở chỗ vô minh tối tăm thì được hoan lạc. Sáu tên đại tặc này chỉ có các vị vua mới có thể ngăn chận. Giặc ác sáu trần cũng lại như vậy, chỉ có Phật, Bồ tát mới có thể ngăn chận. Sáu tên đại tặc này phàm muốn cướp đoạt thì chẳng lựa chọn dòng họ, đoan chính, thông triết, đa văn, bác học, giàu sang, nghèo hèn… Giặc ác sáu trần cũng lại như vậy, muốn cướp thiện pháp cũng chẳng chọn lựa đoan chính… cho đến nghèo hèn. Sáu tên đại tặc này tuy có các vị vua chặt tay chân chúng nhưng còn chẳng thể khiến cho lòng chúng dứt được. Giặc ác sáu trần cũng lại như vậy, tuy Tu đà hoàn, Tư đà hàm, A na hàm chặt tay chân chúng cũng chẳng thể khiến cho chúng chẳng cướp thiện pháp. Như người mạnh mẽ mới có thể tiêu diệt hàng phục sáu tên đại tặc này. Các đức Phật Bồ tát cũng lại như vậy, mới có thể tiêu diệt hàng phục giặc ác sáu trần. Ví như có người có nhiều những dòng họ, phe đảng đông đúc thì chẳng thể bị sự cướp đoạt của sáu tên giặc. Chúng sinh cũng vậy, có thiện tri thức thì chẳng bị sự cướp đoạt giặc ác sáu trần. Sáu tên giặc lớn này nếu thấy vật của người thì có thể trộm cướp. Giặc sáu trần chẳng vậy, nếu thấy hoặc biết, hoặc nghe, hoặc ngữi, hoặc chạm xúc, hoặc hay biết (giác) chúng đều có thể cướp. Sáu tên đại tặc thì chỉ có thể cướp đoạt của cải người Dục giới, chẳng thể cướp đoạt ở Sắc giới và Vô sắc giới. Giặc ác sáu trần thì chẳng như vậy, chúng có thể cướp đoạt tất cả thiện bảo của ba cõi. Vậy nên Bồ tát quan sát chắc chắn sáu trần quá hơn sáu tên đại tặc kia. Tạo tác sự quán tưởng này rồi, Bồ tát tu tám Thánh đạo, đi thẳng chẳng trở lại. Như người sợ kia sợ bốn con rắn độc, năm tên Chiên đà la, một kẻ trá hiện thân thiện và sáu tên đại tặc bỏ tụ lạc trống không, lặn lội trên đường mà đi.

Trên đường gặp một dòng sông thì tức là phiền não. Sao gọi là Bồ tát quán phiền não này giống như dòng sông lớn? Như dòng sông chảy xiết đó có thể cuốn trôi con Hương tượng (một loài voi có mùi thơm). Dòng sông phiền não chảy xiết cũng lại như vậy, có thể cuốn trôi Duyên Giác. Vậy nên Bồ tát quán sâu phiền não giống như dòng sông chảy xiết. Sâu khó đến được đáy nên gọi là sông. Bờ chẳng thể đến được nên gọi là lớn. Trong sông lớn ấy có nhiều loài cá ác đủ chủng loại. Dòng sông lớn phiền não cũng lại như vậy, chỉ Phật, Bồ tát mới có thể đến được đáy nên gọi rất sâu, chỉ Phật, Bồ tát mới đến được bờ kia nên gọi là rộng lớn, thường hại tất cả chúng sinh ngu si nên gọi là cá ác. Vậy nên Bồ tát quán phiền não này giống như dòng sông lớn. Như nước dòng sông lớn có thể nuôi lớn tất cả cỏ cây, rừng rậm. Dòng sông lớn phiền não cũng lại như vậy, có thể làm lớn hai mươi lăm cõi của chúng sinh. Vậy nên Bồ tát quán phiền não này giống như dòng sông lớn. Ví như có người rơi xuống nước dòng sông lớn mà không có tàm quí (xấu hổ). Chúng sinh cũng vậy, rơi vào dòng sông phiền não mà không có tàm quí. Như người rơi vào dòng sông mà chưa đến được đáy sông liền mạng chung. Rơi vào dòng sông phiền não cũng lại như vậy, chưa đến tận đáy sông đã quay trở lại luân chuyển hai mươi lăm cõi. Cái nói rằng đáy thì gọi là tướng không. Nếu có người chẳng tu tướng không như vậy thì phải biết người này chẳng ra khỏi hai mươi lăm cõi. Tất cả chúng sinh chẳng thể khéo tu tướng không nên thường bị sự cuốn trôi của dòng sông phiền não chảy xiết. Như dòng sông lớn kia chỉ có thể hoại thân, chẳng thể cuốn trôi mất tất cả thiện pháp. Dòng sông lớn phiền não thì chẳng như vậy, có thể hoại tất cả thiện pháp của thân và tâm. Dòng sông lớn hung dữ chỉ có thể cuốn trôi, nhận chìm con người trong cõi Dục. Dòng sông lớn phiền não mới có thể cuốn trôi, nhận chìm người trời của ba cõi. Dòng sông lớn thế gian vận động tay chân thì đến bờ kia, còn dòng sông lớn phiền não chỉ có Bồ tát nhân vào sáu Ba la mật mới có thể qua được. Như nước dòng sông lớn khó có thể qua được, dòng sông lớn phiền não cũng lại như vậy, khó có thể qua được. Sao gọi là khó có thể qua được? Cho đến nhưng Ðại Bồ tát hàng Thập Trụ còn chưa có thể qua được rốt ráo, chỉ có các đức Phật mới qua khỏi rốt ráo. Vậy nên gọi là khó có thể qua được. Ví như có người bị sự cuốn trôi của dòng sông mà chẳng thể tu tập một chút xíu thiện pháp. Chúng sinh cũng vậy, bị sự cuốn trôi chìm mất của dòng sông phiền não thì cũng lại chẳng thể tu tập thiện pháp như người rơi xuống sông bị nước cuốn trôi, trừ người có sức thì có thể cứu vớt. Người rơi vào dòng sông phiền não làm nhất xiển đề thì Thanh Văn, Duyên Giác cho đến các đức Phật cũng chẳng thể cứu vớt. Những dòng sông lớn thế gian khi kiếp tận thì bảy mặt trời đều chiếu có thể khiến cho khô cạn. Dòng sông lớn phiền não thì chẳng như vậy, Thanh Văn, Duyên Giác tuy tu bảy giác ý nhưng còn chẳng thể làm khô cạn được. Vậy nên Bồ tát quán tưởng các phiền não giống như dòng sông hung dữ.

Ví như người kia sợ bốn con rắn độc, năm người Chiên đà la một kẻ trá hiện thân thiện và năm tên đại tặc bỏ tụ lạc trống không, theo đường mà đi, đã đến trên dòng sông, gom cỏ làm bè. Bồ tát cũng vậy, sợ rắn bốn đại, Chiên đà la năm ấm, ái trá hiện thân thiện, tụ lạc trống không sáu nhập, giặc ác sáu trần đi đến dòng sông phiền não, tu giới, định, tuệ, giải thoát, giải thoát tri kiến, sáu Ba la mật, ba mươi bảy phẩm trợ pháp… dùng làm thuyền bè. Rồi Bồ tát nương theo bè này qua dòng sông phiền não để đi đến bờ Thường Lạc Niết Bàn kia. Bồ tát tu hành Ðại Niết Bàn thì khởi lên suy nghĩ này: “Ta, nếu chẳng thể nhẫn thọ thân khổ, tâm khổ như vậy thì chẳng thể khiến cho tất cả chúng sinh qua khỏi dòng sông phiền não”. Do suy nghĩ này, Bồ tát tuy có thân tâm khổ não như vậy, nhưng mặc nhiên nhẫn thọ. Do nhẫn thọ nên chẳng sinh ra lậu. Bồ tát như vậy còn không có các lậu, huống là Phật Như Lai mà phải có lậu sao? Vậy nên các đức Phật chẳng gọi là hữu lậu. Sao gọi là Như Lai chẳng phải vô lậu vậy? Như Lai thường hành trong hữu lậu mà hữu lậu tức là hai mươi lăm cõi hữu. Vậy nên người phàm phu, Thanh Văn, nói rằng, Phật có lậu. Nhưng các đức Phật Như Lai chân thật vô lậu.

Này thiện nam tử! Do nhân duyên này, các đức Phật Như Lai không có định tướng. Này thiện nam tử! Vậy nên việc phạm bốn trọng cấm, bài báng Kinh Phương Ðẳng và Nhất xiển đề đều chẳng định.

Lúc bấy giờ, Ðại Bồ tát Quang Minh Biến Chiếu Cao Quí Ðức Vương nói rằng:

– Ðúng vậy! Ðúng vậy! Ðúng như lời dạy của đức Thánh. Tất cả các pháp đều chẳng định. Vì chẳng định nên phải biết rằng, Như Lai cũng chẳng rốt ráo vào với Niết Bàn. Như trước đức Phật đã nói, Ðại Bồ tát tu Ðại Niết Bàn, nghe chẳng nghe. Trong đó có Niết Bàn, có Ðại Niết Bàn. Sao gọi là Niết Bàn? Sao gọi là Ðại Niết Bàn?

Lúc bấy giờ, đức Phật khen Ðại Bồ tát Quang Minh Biến Chiếu Cao Quí Ðức Vương rằng:

– Hay thay! Hay thay! Này thiện nam tử! Nếu có Bồ tát được niệm Tổng trì thì mới có thể hỏi han được như ông. Này thiện nam tử! Như người đời thường nói, có biển thì có biển lớn, có sông thì có sông lớn, có núi thì có núi lớn, có đất thì có đất lớn, có thành thì có thành lớn, có chúng sinh thì có chúng sinh lớn, có vua thì có vua lớn, có người thì có người lớn, có trời thì có đấng Thiên Trung Thiên, có đạo thì có đạo lớn. Niết Bàn cũng vậy, có Niết Bàn thì có Ðại Niết Bàn. Sao gọi là Niết Bàn? Này thiện nam tử! Như người đói được ít cơm ăn thì gọi là an vui mà an vui như vậy cũng gọi là Niết Bàn. Như người bệnh được khỏi thì gọi là an vui, mà an vui như vậy cũng gọi là Niết Bàn. Như người sợ hãi được chỗ nương về thì được an vui, mà an vui như vậy cũng gọi là Niết Bàn. Như người nghèo cùng nhặt được vật Thất bảo thì được an vui, mà an vui như vậy cũng gọi là Niết Bàn. Như người quan sát xương khô chẳng khởi lên tham dục thì được an vui, mà an vui như vậy cũng gọi là Niết Bàn. Những Niết Bàn như vậy chẳng được gọi là Ðại Niết Bàn. Vì sao vậy? Vì đói khát, bệnh, sợ, nghèo, sanh tham trước… đó gọi là Niết Bàn chẳng phải là Ðại Niết Bàn. Này thiện nam tử! Nếu người phàm phu và tất cả Thanh Văn hoặc nhân thế tục, hoặc nhân Thánh đạo đoạn được kết sử cõi Dục thì được an vui, mà an vui như vậy cũng gọi là Niết Bàn, chẳng được gọi Ðại Niết Bàn. Họ có thể đoạn những kết sử từ sơ thiền… cho đến cõi Phi Tưởng Phi Phi Tưởng Xứ thì được an vui, mà an vui như vậy cũng gọi là Niết Bàn, chẳng được gọi là Ðại Niết Bàn. Vì sao vậy? Vì còn trở lại sinh phiền não, có tập khí. Sao gọi là phiền não tập khí? Thanh Văn, Duyên Giác có phiền não khí như là thân ta, áo ta, ta đi, ta lại, ta nói, ta nghe, các đức Phật Như Lai vào với Niết Bàn, tính của Niết Bàn là vô ngã, vô lạc, chỉ có thường Tịnh…. Ðó gọi là phiền não tập khí, Phật, Pháp, Tăng có tướng sai khác, Như Lai rốt ráo vào với Niết Bàn, Niết Bàn sở đắc của Thanh Văn, Duyên Giác, các đức Phật Như Lai bình đẳng không sai biệt…. Do nghĩa này nên sở đắc của hàng Nhị thừa chẳng phải là Ðại Niết Bàn. Vì sao vậy? Vì không Thường – Lạc – Ngã – Tịnh. Thường – Lạc – Ngã – Tịnh mới được gọi là Ðại Niết Bàn vậy.

Này thiện nam tử! Ví như có nơi có thể nhận mọi dòng nước gọi là biển lớn. Theo đó, có chỗ sở nhập của Thanh Văn, Duyên Giác, Bồ tát, các đức Phật Như Lai thì gọi là Ðại Niết Bàn. Bốn Thiền, ba Tam muội, tám Bối xả, tám Thắng xứ, mười Nhất thiết xứ…. mà người theo có thể nhiếp lấy vô lượng những pháp thiện như vậy thì gọi là Ðại Niết Bàn. Này thiện nam tử! Ví như có dòng sông mà con hương tượng đệ nhất chẳng thể đến được đáy thì gọi là Lớn. Thanh Văn, Duyên Giác đến Bồ tát Thập Trụ chẳng thấy Phật tính gọi là Niết Bàn, chẳng phải là Ðại Niết Bàn. nếu có thể thấy tỏ rõ Phật tính thì được gọi là Ðại Niết Bàn. Ðại Niết Bàn này chỉ Ðại Tượng vương có thể tận cùng được đáy. Ðại Tượng vương là gọi các đức Phật vậy. Này thiện nam tử! Như Ðại Na Dà và Bát Kiền Ðà mà đại lực sĩ.v.v… trải qua nhiều thời gian mà chẳng thể lên đến đỉnh thì mới gọi là núi lớn. Ðại na dà Thanh Văn, Duyên Giác và các Bồ tát mà đại lực sĩ.v.v… chẳng thể thấy thì như vậy mới gọi là Ðại Niết Bàn. Lại nữa, này thiện nam tử! Tùy theo, có chỗ sở trụ của tiểu vương thì gọi là thành nhỏ, chỗ sở trụ của Chuyển Luân Thánh Vương mới gọi là thành lớn. Trụ cứ của Thanh Văn, Duyên Giác tám vạn, sáu vạn, bốn vạn hai vạn, một vạn thì gọi là Niết Bàn. Chỗ trụ của đấng Vô thượng Pháp Chủ Thánh Vương mới được gọi là Ðại Bát Niết Bàn. Do vậy, nên gọi là Ðại Bát Niết Bàn. Này thiện nam tử! Ví như có người thấy bốn thứ binh chẳng sinh kinh sợ thì phải biết người đó gọi là đại chúng sinh. Nếu có chúng sanh đối với nghiệp ác phiền não của ba đường ác, chẳng sinh ra sợ hãi mà có thể ở trong đó rộng độ chúng sinh thì phải biết người đó được Ðại Niết Bàn. Nếu có người có thể cúng dường cha mẹ, cung kính Sa môn và Bà la môn, sửa trị thiện pháp, lời nói thành thật, không có lừa dối, có thể nhẫn nhịn các ác, huệ thí nghèo thiếu… thì gọi là Ðại Trượng Phu. Bồ tát cũng vậy, có đại từ bi, thương xót tất cả, đối với các chúng sinh giống như cha mẹ, có thể đưa chúng sinh qua khỏi dòng sông sinh tử, khắp bày ra cho chúng sinh đạo Nhất thật. Ðó gọi là Ðại Bát Niết Bàn. Này thiện nam tử! Ðại gọi là chẳng thể nghĩ bàn. Nếu chẳng thể nghĩ bàn là điều chẳng thể tin của tất cả chúng sinh thì đó gọi là Ðại Bát Niết Bàn. Chỉ là sở kiến của Phật, Bồ tát nên gọi là Ðại Niết Bàn. Do nhân duyên gì lại gọi là Ðại? Do vô lượng nhân duyên, nhiên hậu mới được nên gọi là Ðại. Này thiện nam tử! Như sở đắc của người thế gian do nhiều nhân duyên thì gọi là Ðại (lớn). Niết Bàn cũng vậy, sở đắc do nhiều nhân duyên nên gọi là Ðại. Sao lại gọi là Ðại Niết Bàn? Có Ðại Ngã nên gọi là Ðại Niết Bàn, còn Niết Bàn thì vô ngã. Có Ðại tự tại nên gọi là Ðại Ngã. Sao gọi là Ðại tự tại vậy? Có tám tự tại thì gọi là Ngã. Những gì là tám? Một là có thể thị hiện một thân lấy làm nhiều thân. Số thân lớn nhỏ giống như vi trần tràn đầy mười phương vô lượng thế giới. Thân Như Lai thật chẳng phải vi trần, do tự tại nên hiện thân vi trần. Như vậy tự tại tức là Ðại ngã. Hai là thị hiện một thân vi trần đầy ở ba ngàn đại thiên thế giới. Thân Như Lai thật chẳng đầy ở ba ngàn đại thiên thế giới. Vì sao vậy? Vì do vô ngại, những do tự tại nên đầy ba ngàn đại thiên thế giới. Như vậy Tự tại gọi là Ðại Ngã. Ba là có thể dùng thân đầy ba ngàn đại thiên thế giới này nhẹ nhàng cất lên bay vào hư không đi qua những thế giới Phật nhiều bằng hai mươi lần cát sông Hằng mà không ngăn ngại. Thân Như Lai thật không nặng, nhẹ, do tự tại nên có thể làm nặng, nhẹ. Như vậy tự tại gọi là Ðại Ngã. Bốn là do tự tại nên được tự tại. Sao gọi là tự tại? Như Lai một lòng an trụ chẳng động mà đã có thể thị hiện hóa ra vô lượng hình loại đều khiến cho chúng có tâm. Như Lai có khi, hoặc tạo ra một việc mà khiến cho chúng sinh mỗi mỗi đều biện thành. Thân Như Lai thường trụ ở một cõi mà khiến cho cõi khác, tất cả đều thấy. Như vậy Tự tại gọi là Ðại Ngã. Năm là Căn tự tại. Sao gọi là Căn tự tại vậy? Một căn của Như Lai cũng có thể thấy sắc, nghe tiếng, ngửi hương, phân biệt vị, giác xúc, biết pháp. Sáu căn của Như Lai cũng chẳng thấy sắc, nghe tiếng, ngữi hương, phân biệt vị, giác xúc, biết pháp. Do tự tại nên khiến cho căn tự tại. Như vậy Tự tại gọi là Ðại Ngã. Sáu là do tự tại nên được tất cả pháp. Tâm Như Lai cũng không được tưởng. Vì sao vậy? Vì không sở đắc vậy. Nếu là có thì có thể gọi là được (đắc), nhưng thật ra không sở hữu. Sao gọi là được? Nếu giả sử Như Lai kể là có được tưởng thì tức là các đức Phật chẳng được Niết Bàn. Do không được nên gọi là được Niết Bàn. Do tự tại nên được tất cả pháp mà được các pháp nên gọi là Ðại Ngã. Bảy là nói tự tại nên Như Lai diễn nói ý nghĩa một bài kệ trải qua vô lượng kiếp mà ý nghĩa cũng chẳng thể hết. Ðó là như giới, hoặc định, hoặc thí, hoặc tuệ… Như Lai bấy giờ đều chẳng phát ý niệm, ta nói người kia nghe, cũng lại chẳng sinh ý tưởng về một bài kệ. Theo người thế gian thì bốn câu là một bài kệ, Như Lai theo thế tục nói ra nên gọi là kệ. Tất cả pháp tánh cũng không có điều để nói nhưng do tự tại nên Như Lai diễn nói. Do diễn nói nên gọi là Ðại Ngã. Tám là Như Lai cùng khắp tất cả mọi nơi giống như hư không. Tính hư không chẳng thể được thấy. Như Lai cũng vậy, chẳng thể thấy. Do tự tại nên khiến cho tất cả thấy. Như vậy tự tại gọi là Ðại Ngã. Như vậy Ðại Ngã gọi là Ðại Niết Bàn. Do ý nghĩa này nên gọi là Ðại Niết Bàn. Lại nữa, này thiện nam tử! Ví như bảo tàng với nhiều những đồ trân quí kỳ lạ, hàng trăm thứ đầy đủ nên gọi là đại tạng. Tạng rất thâm áo của các đức Phật Như Lai cũng lại như vậy, nhiều những thứ kỳ lạ, đầy đủ không khiếm khuyết nên gọi là Ðại Niết Bàn. Lại nữa, này thiện nam tử! Vật vô biên mới gọi là đại. Niết Bàn vô biên, vậy nên gọi là đại. Lại nữa, này thiện nam tử! Có đại lạc nên gọi là Ðại Niết Bàn, còn Niết Bàn thì không lạc. Do bốn thứ lạc nên gọi là Ðại Niết Bàn. Những gì là bốn? Một là đoạn dứt những niềm vui (lạc). Chẳng đoạn dứt vui thì tức là khổ mà nếu có khổ thì chẳng gọi là đại lạc (vui lớn). Do đoạn dứt vui thì không có khổ mà không khổ, không lạc mới gọi là Ðại Lạc. Tính của Niết Bàn không khổ, không lạc. Vậy nên Niết Bàn gọi là Ðại Lạc. Do nghĩa này nên gọi là Ðại Niết Bàn. Lại nữa, này thiện nam tử! Lạc có hai thứ, một là lạc của phàm phu, hai là lạc của chư Phật. Lạc của phàm phu thì vô thường, bại hoại. Vậy nên không có lạc. Chư Phật thì thường lạc không có biến dị nên gọi là Ðại Lạc. Lại nữa, này thiện nam tử! Có ba thứ thọ, một là khổ thọ, hai là lạc thọ, ba là bất khổ bất lạc thọ. Chẳng khổ chẳng vui cũng là khổ. Niết Bàn tuy đồng chẳng khổ, chẳng vui, nhưng gọi là Ðại Lạc. Do Ðại Lạc nên gọi là Ðại Niết Bàn. Hai là Ðại Tịch Tịnh nên gọi là Ðại Lạc. Tính Niết Bàn là Ðại Tịch Tịnh. Vì sao vậy? Vì xa lìa tất cả pháp rối loạn, ồn ào. Do Ðại Tịch Tịnh nên gọi là Ðại Niết Bàn. Ba là biết tất cả nên gọi là Ðại Lạc. Chẳng phải biết tất cả thì chẳng gọi là Ðại Lạc. Các đức Phật Như Lai biết tất cả nên gọi là Ðại Lạc. Do Ðại Lạc nên gọi là Ðại Niết Bàn. Bốn là thân chẳng hoại nên gọi là Ðại Lạc. Thân nếu có thể hoại thì chẳng gọi là Lạc. Thân của Như Lai là thân Kim Cương không hoại, chẳng phải là thân phiền não, là thân vô thường nên gọi là Ðại Lạc. Do Ðại Lạc nên gọi là Ðại Niết Bàn. Này thiện nam tử! Danh tự (tên) của thế gian, hoặc có nhân duyên, hoặc không nhân duyên. Có nhân duyên là như ông Xá Lợi Phất có mẹ tên là Xá Lợi rồi nhân tên mẹ đặt tên con nên gọi là Xá Lợi Phất. Như đạo nhân Ma Du La sinh ra ở nước Ma Du La, rồi nhân nước mà đặt tên nên gọi là đạo nhân Ma Du La. Như ông Mục Kiền Liên, Mục Kiền Liên tức là họ, rồi nhân họ đặt tên nên gọi là Mục Kiền Liên. Như ta sinh ra ở dòng họ Cù Ðàm, rồi nhân họ đặt tên, xưng là Cù Ðàm. Như đạo nhân Tỳ Xá Khư, Tỳ Xá Khư tức là tên một vì sao. Nhân lấy sao làm tên nên gọi là Tỳ Xá Khư. Như tay có sáu ngón, nhân sáu ngón nên gọi là người sáu ngón. Như kẻ làm tôi cho Phật, làm tôi cho trời, nhân Phật, nhân trời nên gọi kẻ đó là Phật nô, Thiên nô. Nhân ẩm thấp sinh ra nên gọi là thấp sinh. Như nhân âm thanh nên tên là Ca Ca La, tên Cứu Cứu La, Ðán Ðán La. Những tên như vậy.v.v… gọi là tên nhân duyên. Tên không nhân duyên là như: hoa sen, đất nước, lửa, gió, hư không. Như Mạn Ðà Bà thì một là tên, hai là thật. Một là gọi điện đường, hai là gọi nước uống. Nhà chẳng uống nước cũng lại được gọi là Mạn Ðà Bà. Như Tát Ba Xa Ða tên là Xà Cái mà thật chẳng phải là xà cái. Ðó gọi là tên không nhân duyên mà chỉ cưỡng đặt tên gọi. Như Ðể La Bà Di tên là Thực Du nhưng thật ra chẳng ăn dầu, chỉ là khiên cưỡng đặt tên gọi là Thực Du. Ðó gọi là áp đặt tên gọi không có nhân duyên. Này thiện nam tử! Ðại Niết Bàn này cũng lại như vậy, không có nhân duyên mà là áp đặt tên gọi. Này thiện nam tử! Ví như hư không chẳng nhân cái tiểu không mà gọi là đại vậy. Niết Bàn cũng thế, chẳng nhân tiểu tướng mà gọi Ðại Niết Bàn. Này thiện nam tử! Ví như có pháp chẳng thể xưng lường, chẳng thể nghĩ bàn nên gọi là đại (lớn). Niết Bàn cũng vậy, chẳng thể xưng lường, chẳng thể nghĩ bàn nên được gọi là Ðại bát Niết Bàn. Do thuần tịnh nên gọi là Ðại Niết Bàn. Sao gọi là thuần tịnh? Tịnh có bốn thứ? Những gì là bốn? Một là hai mươi lăm cõi hữu gọi là bất tịnh mà có thể vĩnh viễn đoạn tuyệt nên được gọi là tịnh. Tịnh tức là Niết Bàn mà Niết Bàn như vậy cũng được gọi là có. Nhưng Niết Bàn này thật chẳng phải là có. Các đức Phật Như Lai theo thế tục nên nói Niết Bàn có. Ví như người đời, chẳng phải cha mà nói rằng cha, chẳng phải mẹ mà nói rằng mẹ. Thật chẳng phải là cha mẹ mà nói rằng cha mẹ. Niết Bàn cũng vậy, theo thế tục nên chư Phật nói rằng, có Ðại Niết Bàn. Hai là Nghiệp thanh tịnh. Nghiệp của tất cả phàm phu chẳng thanh tịnh nên không Niết Bàn. Nghiệp của các đức Phật Như Lai thanh tịnh nên gọi là Ðại tịnh. Do Ðại tịnh nên gọi là Ðại Niết Bàn. Ba là thân thanh tịnh. Thân nếu vô thường thì gọi là bất tịnh. Thân Như Lai thường nên gọi là Ðại tịnh. Do đại tịnh nên gọi là Ðại Niết Bàn. Bốn là tâm thanh tịnh. Tâm nếu có lậu thì gọi là bất tịnh. Tâm Phật vô lậu nên gọi là đại tịnh. Do đại tịnh nên gọi là Ðại Niết Bàn. Này thiện nam tử! Ðó gọi là, nếu có thiện nam tử, thiện nữ nhân tu hành Kinh Ðại Niết Bàn như vậy thì thành tựu đầy đủ công đức phân đầu.

KINH ÐẠI BÁT NIẾT BÀN

– Quyển thứ hai mươi mốt hết –

    Xem thêm:

  • Kinh Trung A-Hàm – HT Thích Tuệ Sĩ dịch - Kinh Tạng
  • Kinh Trường A-Hàm – HT Thích Tuệ Sĩ dịch - Kinh Tạng
  • Kinh Trường A-Hàm Phần 4 – HT Thích Tuệ Sĩ dịch - Kinh Tạng
  • Kinh Trường A-Hàm Phần 3 – HT Thích Tuệ Sĩ dịch - Kinh Tạng
  • Kinh Trường A-Hàm Phần 2 – HT Thích Tuệ Sĩ dịch - Kinh Tạng
  • Kinh Trường A-Hàm Phần 1 – HT Thích Tuệ Sĩ dịch - Kinh Tạng
  • Kinh Dược Sư Lưu Ly Quang Như Lai Bổn Nguyện Công Đức – Tuệ Nhuận dịch - Kinh Tạng
  • Kinh Tinh Xá Đầu Voi – Thích Nữ Tuệ Thành dịch - Kinh Tạng
  • Kinh Bảy Giấc Mộng Của A Nan – Thích Nữ Tuệ Thành dịch - Kinh Tạng
  • Kinh Duy Ma Cật Sở Thuyết – HT Thích Tuệ Sỹ dịch - Kinh Tạng
  • Kinh Đại Bát Niết Bàn – Thích Trí Tịnh dịch - Kinh Tạng
  • Kinh A Nan Vấn Phật Sự Cát Hung – Thích Nữ Tuệ Thành dịch - Kinh Tạng
  • Nghi Quỹ Bố Đàn Pháp Tu Dược Sư - Kinh Tạng
  • Kinh Bách Dụ – Thích Tâm Châu dịch - Kinh Tạng
  • Kinh Văn Thù Sư Lợi Bát Niết Bàn – Thích Nữ Thành Thông dịch - Kinh Tạng
  • Kinh Văn Thù Sư Lợi Bát Niết Bàn – Huyền Thanh dịch - Kinh Tạng
  • Kinh Trường Bộ (Dìgha Nikàya) – HT Thích Minh Châu dịch (Trọn bộ) - Kinh Tạng
  • Kinh Khai Giác Tự Tánh Bát Nhã Ba La Mật Đa - Kinh Tạng
  • Kinh Đại Bát Niết Bàn – Đoàn Trung Còn & Nguyễn Minh Tiến dịch - Kinh Tạng
  • Kinh Phật Dạy Tu Tập Mười Nghiệp Lành - Kinh Tạng