Quyển thứ 35
25. PHẨM KIỀU TRẦN NHƯ PHẦN 1
Lúc bấy giờ, đức Thế Tôn bảo ngài Kiều Trần Như rằng:
– Sắc là vô thường. Nhân diệt sắc này chứng được sắc giải thoát thường trụ. Thọ, tưởng, hành, thức cũng là vô thường. Nhân diệt… thức này chứng được… thức giải thoát thường trụ. Này Kiều Trần Như! Sắc tức là khổ. Nhân diệt sắc này chứng được sắc giải thoát an lạc. Thọ, tưởng, hành, thức cũng lại như vậy. Này Kiều Trần Như! Sắc tức là không. Nhân diệt sắc không chứng được sắc giải thoát chẳng phải không. Thọ, tưởng, hành, thức cũng lại như vậy. Này Kiều Trần Như! Sắc là vô ngã. Nhân diệt sắc này chứng được sắc giải thoát chân ngã. Thọ, tưởng, hành, thức cũng lại như vậy. Này Kiều Trần Như! Sắc là bất tịnh. Nhân diệt sắc này chứng được sắc giải thoát thanh tịnh. Thọ, tưởng, hành, thức cũng lại như vậy. Này Kiều Trần Như! Sắc là tướng của sinh già bịnh chết. Nhân diệt sắc này chứng được sắc giải thoát chẳng phải tướng của sinh già bịnh chết. Thọ, tưởng, hành, thức cũng lại như vậy. Này Kiều Trần Như! Sắc là nhân của vô minh. Nhân diệt sắc này chứng được sắc giải thoát chẳng phải nhân của vô minh. Thọ, tưởng, hành, thức cũng lại như vậy. Này Kiều Trần Như! Cho đến sắc là sinh nhân. Nhân diệt sắc này chứng được sắc giải thoát chẳng phải sinh nhân. Thọ, tưởng, hành, thức cũng lại như vậy. Này Kiều Trần Như! Sắc tức là nhân của bốn điên đảo. Nhân diệt sắc điên đảo chứng được sắc giải thoát chẳng phải nhân của bốn điên đảo. Thọ, tưởng, hành, thức cũng lại như vậy. Này Kiều Trần Như! Sắc là nhân của vô lượng ác pháp như là thân trai gái, thực ái, dục ái, tham, sân, si, tật đố, xan tâm, ác tâm, đoàn thực, thức thực, tư thực, xúc thực, noãn sinh, thai sinh, thấp sinh, hóa sinh, ngũ dục, ngũ cái.v.v… Những pháp như vậy đều nhân với sắc. Nhân diệt sắc này nên chứng được sắc giải thoát không có vô lượng những ác như vậy. Thọ, tưởng, hành, thức cũng lại như vậy. Này Kiều Trần Như! Sắc tức là trói buộc. Nhân diệt sắc trói buộc chứng được sắc giải thoát không trói buộc. Thọ, tưởng, hành, thức cũng lại như vậy. Này Kiều Trần Như! Sắc tức là dòng chảy. Nhân diệt sắc dòng chảy chứng được sắc giải thoát chẳng phải dòng chảy. Thọ, tưởng, hành, thức cũng lại như vậy. Này Kiều Trần Như! Sắc chẳng phải qui y. Nhân diệt sắc này chứng được sắc giải thoát qui y. Thọ, tưởng, hành, thức cũng lại như vậy. Này Kiều Trần Như! Sắc là ghẻ lở. Nhân diệt sắc này chứng được sắc giải thoát không ghẻ lở. Thọ, tưởng, hành, thức cũng lại như vậy. Này Kiều Trần Như! Sắc chẳng phải tịch tịnh. Nhân diệt sắc này chứng được sắc Niết Bàn tịch tịnh. Thọ, tưởng, hành, thức cũng lại như vậy. Này Kiều Trần Như! Nếu có người có thể biết như vậy thì người đó gọi là Sa môn, gọi là Bà la môn, đầy đủ pháp Sa môn, Bà la môn. Này Kiều Trần Như! Nếu lìa khỏi Phật pháp thì không có Sa môn và Bà la môn, cũng không có pháp Sa môn, Bà la môn. Tất cả ngoại đạo hư dối giả trá xưng đều là hạnh không thật. Tuy họ tạo tác tướng mạo nói rằng có hai thứ này, nhưng thật không có điều đó. Vì sao vậy? Vì nếu không có pháp Sa môn, Bà la môn thì sao mà nói có Sa môn và Bà la môn? Ta thường ở trong đại chúng này rống tiếng rống Sư tử! Các ngươi cũng phải ở trong đại chúng rống tiếng rống sư Sư tử.
Bấy giờ, có vô lượng người ngoại đạo nghe lời nói đó rồi lòng sinh ra sân ác mà rằng: “Ông Cù Ðàm nay nói trong chúng của chúng ta không có Sa môn và Bà la môn, cũng không có pháp Sa môn, Bà la môn thì chúng ta phải làm sao thiết lập phương tiện rộng rãi để nói với ông Cù Ðàm rằng, trong chúng của chúng ta cũng có Sa môn, có pháp Sa môn, có Bà la môn, có pháp Bà la môn?” Trong chúng đó có một Phạm chí xướng lên như vầy: “Thưa các ngài! Lời nói của ông Cù Ðàm như lời cuồng điên, không khác! Sao có thể kiểm nghiệm? Người cuồng của thế gian hoặc ca, hoặc múa, hoặc khóc, hoặc cười, hoặc mắng chưỡi, hoặc khen ngợi, đối với người thân kẻ oán đã chẳng thể phân biệt. Ông Sa môn Cù Ðàm cũng lại như vậy, hoặc nói ta sinh ở nhà vua Tịnh Phạn, hoặc nói chẳng sinh, hoặc nói sinh rồi đi bảy bước, hoặc nói chẳng đi, hoặc nói từ nhỏ học tập thế sự, hoặc nói ta là người Nhất Thiết Trí, hoặc khi ở cung hưởng thụ lạc sinh con, hoặc khi chán ghét khổ hoạn quở trách ác hèn, hoặc khi gần gũi tu khổ hạnh sáu năm, hoặc khi quở trách ngoại đạo khổ hạnh, hoặc nói rằng từ ông Uất Ðầu Lam Phất, ông A La La.v.v… bẩm thừa điều chưa nghe, hoặc khi nói những ông ấy không có sự hiểu biết, hoặc khi nói rằng dưới cây Bồ Ðề được Vô Thượng Chánh Ðẳng Chánh Giác, hoặc khi nói rằng ta chẳng đến cây không có sự thu hoạch ấy, hoặc khi nói rằng thân này của ta hôm nay tức là Niết Bàn, hoặc nói thân diệt mới là Niết Bàn… Lời nói của ông Cù Ðàm như cuồng điên không khác thì tại sao vì những lời này mà buồn lo bối rối vậy?” Các Bà la môn liền đáp rằng: “Thưa Ðại sĩ! Chúng tôi hôm nay sao chẳng buồn được? Ông Sa môn Cù Ðàm trước xuất gia rồi, nói vô thường, khổ, không, vô ngã, bất tịnh. Các đệ tử của tôi nghe được còn sinh ra sợ hãi thì làm sao chúng sinh vô thường, khổ, không, vô ngã, bất tịnh mà chẳng thọ nhận lời nói của ông ấy? Hôm nay ông Cù Ðàm lại đến trong rừng Ta La này vì những đại chúng nói có pháp Thường Lạc Ngã Tịnh. Các đệ tử của tôi nghe lời nói rồi đều bỏ tôi đi thọ lời nói của ông Cù Ðàm. Do những nhân duyên đó nên tôi sinh ra sầu khổ lớn”. Bấy giờ lại có một Bà la môn nói rằng: “Thưa các ngài! Hãy lắng nghe! Lắng nghe! Ông Sa môn Cù Ðàm gọi là tu Từ Bi! Lời nói này hư vọng chẳng phải chân thật vậy! Nếu có Từ Bi thì làm sao dạy các đệ tử của tôi.v.v… tự thọ pháp ấy? Quả Từ Bi là thuận theo ý người khác, nay lại trái ý nguyện của tôi thì sao nói rằng có? Nếu có người nói rằng, ông Sa môn Cù Ðàm chẳng bị nhiễm tám pháp của thế gian thì đó cũng hư vọng. Nếu nói ông Cù Ðàm thiểu dục tri túc thì hôm nay sao lại đoạt lấy lợi của chúng ta? Nếu nói dòng họ là thượng tộc thì đó cũng hư vọng. Vì sao vậy? Vì từ xưa đến nay chẳng thấy chẳng nghe vua Ðại Sư Tử tàn hại loài chuột nhắt. Nếu giả sử ông Cù Ðàm là dòng giống trên thì làm sao hôm nay lại não loạn chúng ta? Nếu nói ông Cù Ðàm đủ thế lực lớn thì đó cũng hư vọng. Vì sao vậy? Vì từ xưa đến nay cũng chẳng thấy nghe vua chim cánh vàng cùng với quạ tranh nhau. Nếu nói lực ông ấy lớn thì lại vì việc gì cùng với chúng ta chung đấu tranh? Nếu nói ông Cù Ðàm đủ trí biết lòng người khác (tha tâm trí) thì đó cũng hư vọng. Vì sao vậy? Vì nếu đủ trí này thì vì nhân duyên gì chẳng biết lòng chúng ta? Thưa các ngài! Tôi, khi xưa đã từ người trí tuệ kỳ cựu, nghe nói việc này, qua trăm năm rồi thì có một kẻ yêu huyễn xuất hiện, tức là ông Cù Ðàm. Như vậy kẻ yêu mị huyễn hoặc hôm nay đang ở trong rừng Ta la này sắp diệt chẳng lâu nữa. Các ngài hôm nay chẳng nên sầu não!” Lúc ấy lại có một Ni Kiền Tử đáp rằng: “Thưa ngài! Tôi nay sầu khổ chẳng vì sự cúng dường của đệ tử bản thân mình mà chỉ vì thế gian tối tăm không có mắt, chẳng nhận thức được ruộng phước hay chẳng phải ruộng phước, xả bỏ những vị Bà la môn trí tuệ kỳ cựu, cúng dường cho hạng thiếu niên nên lấy làm buồn vậy! Ông Sa môn Cù Ðàm cả biết chú thuật, nhân lực của chú thuật có thể khiến cho một thân làm ra vô lượng thân rồi khiến cho vô lượng thân trở lại thành một thân, hoặc dùng thân mình hóa làm hình dáng nam, nữ, trâu, dê, voi, ngựa… Sức của tôi có thể tiêu diệt thứ chú thuật như vậy. Chú thuật của ông Sa môn Cù Ðàm đã diệt rồi thì chúng ta sẽ trở lại được nhiều sự cúng dường hưởng thụ an lạc!” Lúc bấy giờ, lại có một người Bà la môn nói lên rằng: “Thưa các ngài! Sa môn Cù Ðàm thành tựu đầy đủ vô lượng công đức. Vậy nên chúng ta chẳng nên cùng ông ấy đấu tranh!” Ðại chúng đáp rằng: “Này người ngu si! Sao nói rằng, ông Sa môn Cù Ðàm đầy đủ công đức lớn? Ông ấy sinh ra được bảy ngày thì mẹ liền mạng chung mà đó có thể được gọi là tướng phước đức sao?” Vị Bà la môn đáp rằng: “Khi bị mắng chẳng sân giận, khi bị đánh chẳng đánh lại thì phải biết là người đó có tướng phước đức lớn. Thân ông ấy đầy đủ ba mươi hai tướng tốt, tám mươi vẻ đẹp và vô lượng thần thông. Vậy nên phải biết đó là tướng phước đức. Lòng không kiêu mạn, có ý trước thăm hỏi, lời nói dịu dàng, trước không thô ác, lòng chẳng bạo ngược, vương quốc nhiều của cải mà không có sự luyến ái, bỏ hết tất cả mà xuất gia như nhổ bỏ nước dãi. Vậy nên tôi nói ông Sa môn Cù Ðàm thành tựu đầy đủ vô lượng công đức!” Ðại chúng đáp rằng: “Hay thay! Thưa ngài! Ông Sa môn Cù Ðàm thật đúng như lời ngài nói, thành tựu vô lượng thần thông biến hóa, chúng ta chẳng cùng với ông đó thi đấu việc này được! Ông Sa môn Cù Ðàm bẩm tính nhu nhuyến, chẳng kham khổ hạnh, sinh trưởng ở thâm cung, chẳng nắm được việc bên ngoài. Ông chỉ có thể dùng lời nói dịu ngọt, chứ chẳng biết kỹ nghệ, thư tịch, nghị luận… Hãy thỉnh ông ấy chung biện luận tường tận điều cốt yếu của chính pháp! Ông đó nếu thắng tôi thì tôi sẽ làm cấp sự cho ông! Nếu tôi thắng ông đó thì ông đó sẽ làm cấp sự cho tôi!” (cấp sự: người cung cấp mọi việc).
Lúc bấy giờ, có ngoại đạo nhiều không lường chung hòa hợp kéo đến chỗ của A Xà Thế, vua nước Ma Dà Ðà. Nhà vua thấy họ liền hỏi: “Này các ngài! Các ngài mỗi mỗi đều tu tập Thánh Ðạo, là người xuất gia, lìa bỏ của cải và việc tại gia mà nhân dân của nước ta đều chung cúng dường, lòng cung kính ngắm nhìn, không xúc chạm nhau mà vì sao các ngài hòa hợp nhau lại, kéo đến đây? Này các ngài! Các ngài đều thọ pháp khác, giới khác, xuất gia chẳng đồng. Các ngài cũng lại mỗi mỗi đều tự theo giới pháp, xuất gia tu đạo mà vì nhân duyên gì hôm nay một lòng chung hòa hợp giống như lá rụng cuốn theo gió thổi tụ về một chỗ? Hãy nói vì nhân duyên gì mà các ngài đi đến đây! Ta thường ủng hộ người xuất gia, thậm chí chẳng tiếc thân cùng mạng!” Bấy giờ, tất cả các chúng ngoại đạo đều nói lên rằng: “Thưa Ðại vương! Xin ngài hãy lắng nghe! Ðại vương, hôm nay chính là cây cầu của Ðại pháp, là viên đá mài Ðại pháp, là cái cân của Ðại pháp… tức là pháp khí của tất cả công đức, tính chân thật của tất cả công đức, đường lối của chính pháp, tức là ruộng tốt của hạt giống, căn bản của tất cả đất nước, gương sáng của tất cả đất nước, hình tượng của tất cả chư thiên, cha mẹ của tất cả người trong nước. Thưa Ðại vương! Bảo tàng công đức của tất cả thế gian tức là thân của nhà vua. Vì sao vậy? Gọi là công đức tạng là vì nhà vua quyết đoán việc nước chẳng lựa kẻ oán người thân. Lòng ngài bình đẳng như đất nước lửa gió. Vậy nên gọi vua là công đức tạng. Thưa Ðại vương! Chúng sinh hiện tại tuy thọ mạng lại ngắn ngủi, nhưng công đức của vua thì như của vua thời an lạc sống lâu thuở xưa. Ngài cũng như vua Ðỉnh Sinh Thiện Kiến Nhẫn Nhục Na Hầu Sa, vua Na Na Ðế, vua Thi Tỳ, vua Nhất Xoa Cưu.v.v… những vị vua như vậy đầy đủ thiện pháp. Ðại vương hôm nay cũng lại như vậy. Thưa Ðại vương! Do nhân duyên của vua nên đất nước an lạc, nhân dân đông đúc nên người xuất gia hâm mộ ưa thích đất nước này, trì giới tinh tấn tu tập Chính đạo. Thưa Ðại vương! Trong kinh ta nói rằng, nếu người xuất gia theo nước sở trụ mà trì giới tinh tấn, siêng tu chính đạo thì vua nước ấy cũng có phần tu thiện. Thưa Ðại vương! Tất cả đạo tặc, nhà vua đã chỉnh lý thì người xuất gia đều không có gì kinh sợ, chỉ có một người đại ác, ông Sa môn Cù Ðàm! Nhà vua chưa kiểm nghiệm, chúng tôi thì rất sợ! Người ấy tự cậy vào dòng giống hào tộc và sắc thân đầy đủ, lại nhân vào quả báo bố thí đời quá khứ được nhiều sự cúng dường. Ông ấy ỷ thị vào những việc này mà sinh ra đại kiêu mạn: hoặc nhân chú thuật mà sinh kiêu mạn. Do nhân duyên đó nên chẳng thể tu khổ hạnh mà thâu nhận chứa chấp đồ tế nhuyễn, y phục, ngọa cụ… Vậy nên tất cả người ác của thế giân vì lợi dưỡng nên đến tụ tập ở chỗ ông ấy mà làm quyến thuộc, chẳng thể tu khổ hạnh. Nhờ sức chú thuật nên điều phục được ông Ca Diếp. Ông Xá Lợi Phất và ông Mục Kiền Liên.v.v… hôm nay ông ấy lại đi đến chỗ trú xứ của tôi trong rừng Ta La, tuyên nói, thân này Thường Lạc Ngã Tịnh để dụ dỗ các đệ tử của tôi. Thưa Ðại vương! Ông Cù Ðàm trước nói vô thường, vô lạc, vô tịnh, vô ngã thì tôi có thể nhịn dược. Nhưng nay ông tuyên nói Thường Lạc Ngã Tịnh thì tôi thật chẳng nhịn được! Nguyện xin Ðại vương cho phép tôi cùng ông Cù Ðàm kia luận nghị!” Nhà vua liền đáp rằng: “Này các đại sĩ! Các ông hôm nay bị ai dạy bảo dẫn dắt mà khiến cho lòng các ông cuồng loạn bất định như nước nổi ba đào, lửa xoáy vòng bánh xe, vượn khỉ ném mình trên cây vậy? Việc này đáng xấu hổ. Kẻ trí nên nghe được tức thời sinh thương xót, kẻ ngu nghe được liền sinh ra chê cười. Các ông nói ra lời chẳng phải tướng xuất gia. Các ông nếu bị bệnh hoạn phong hoàng thủy (?) thì ta đều có thuốc có thể trị liệu cho. Còn như các ông bị quỉ bệnh thì gia huynh là Kỳ Bà giỏi có thể trị khỏi được! Các ông hôm nay muốn dùng móng tay bào mòn núi Tu Di, muốn dùng răng của miệng cắn vỡ Kim Cương, này các đại sĩ thì ví như người ngu khi thấy vua Sư tử đói nằm ngủ mà muốn thức nó dậy, như người dùng ngón tay đặt vào miệng rắn độc, như người muốn lấy tay sờ trong đám tro phủ trên lửa! Các ông hôm nay cũng lại như vậy! Này thiện nam tử! Ví như con cáo hoang làm tiếng rống Sư tử, giống như con muỗi cùng với chim cánh vàng thi đấu đi mau chậm, như con thỏ qua biển muốn đến tận đáy biển! Các ông hôm nay cũng lại như vậy. Các ông nếu mơ thấy thắng ông Cù Ðàm thì giấc mơ này cuồng hoặc chưa đủ đáng tin! Này các Ðại sĩ! Các ông hôm nay dấy lên ý này, giống như loài bướm đêm bay gieo mình vào đám lửa lớn! Các ông theo lời nói của ta chẳng cần nói nữa! Các ông tuy khen ta bình đẳng như cái cân nhưng chớ để cho người ngoài nghe lời nói này!” Bấy giờ ngoại đạo lại nói rằng: “Tâu Ðại vương! Sa môn Cù Ðàm đã làm huyễn thuật đến bên ngài chưa vậy mà khiến cho lòng ngài nghi ngờ chẳng tin những Thánh nhân này? Thưa Ðại vương! Ngài chẳng nên khinh miệt các vị Ðại sĩ như vậy! Thưa Ðại vương! Vầng trăng này tăng giảm, vị mặn của biển cả, núi Ma La Diên… Những việc như vậy là sự tạo tác của ai? Há chẳng phải Bà la môn chúng ta sao?! Thưa Ðại vương! Ngài chẳng nghe vị tiên A Kiệt Ða, trong mười hai năm, chận đứng nước của sông Hằng trong tai sao? Thưa Ðại vương! Ngài chẳng nghe vị tiên nhân Cù Ðàm đại hiện thần thông, trong mười hai năm, biến làm thân Ðế Thích, đồng thời khiến cho thân Ðế Thích trở thành hình dáng con dê đực và làm ra một ngàn nữ căn tại thân Ðế Thích sao? Thưa Ðại vương! Ngài chẳng nghe tiên nhân Kỳ Miễn, trong một ngày, uống cạn nước bốn biển khiến cho đại địa khô ráo sao? Thưa Ðại vương! Ngài chẳng nghe tiên nhân Bà Tẩu vì trời Tự Tại làm ba con mắt sao? Thưa Ðại vương! Ngài chẳng nghe tiên nhân La La biến thành Ca Phú La (Ca La Phú?) trở thành vùng đất mặn sao? Thưa Ðại vương! Trong hàng Bà la môn có những vị tiên lực lớn như vậy.v.v… hiện có thể kiểm nghiệm. Thưa Ðại vương! Làm sao mà ngài thấy khinh miệt vậy?” Nhà vua nói rằng: “Này các ngài! Nếu các ngài chẳng tin nên muốn làm gì thì đức Như Lai Chính Giác nay ở gần đây, tại trong rừng Ta La, các ông có thể đến mà tùy ý vấn nạn. Ðức Như Lai cũng sẽ vì các ông mà phân biệt đáp vừa ý của các ông.
Lúc bấy giờ, vua A Xà Thế cùng các ngoại đạo và đồ chúng, quyến thuộc của họ đi đến chỗ đức Phật, đầu mặt làm lễ, đi nhiễu về bên phải ba vòng, tu kính đã xong, lui về trụ ở một bên, bạch đức Phật rằng:
– Thưa đức Thế Tôn! Những ngoại đạo này muốn được tùy ý vấn nạn! Nguyện xin đức Như Lai tùy ý đáp lại họ!
Ðức Phật dạy rằng:
– Này Ðại vương! Thôi đi ta tự biết lúc!
Bấy giờ, trong chúng có Bà la môn tên là Xà Ðề Thủ Na nói rằng:
– Thưa ông Cù Ðàm! Ông nói Niết Bàn là pháp Thường chăng?
– Ðúng vậy! Ðúng vậy! Thưa ông Ðại Bà la môn.
Vị Bà la môn nói rằng:
– Thưa ông Cù Ðàm! Nếu nói Niết Bàn thường thì nghĩa đó chẳng đúng! Vì sao vậy? Vì pháp của thế gian thì từ hạt sinh ra quả, nối tiếp nhau chẳng đoạn dứt như từ bùn làm ra bình, từ lụa được áo. Ngài Cù Ðàm thường nói tu vô thường tưởng chứng được Niết Bàn. Nhân đó làm sao mà vô thường quả nói là thường? Ông Cù Ðàm lại nói, Giải thoát Dục tham tức là Niết Bàn, giải thoát Sắc tham và Vô sắc tham tức là Niết Bàn, diệt vô minh.v.v… tất cả phiền não tức là Niết Bàn. Từ Dục cho đến vô minh phiền não đều là vô thường. Nhân sự vô thường đó mà sở đắc Niết Bàn thì Niết Bàn đó cũng nên vô thường! Ông Cù Ðàm lại nói, từ nhân nên sinh lên trời, từ nhân nên đọa vào địa ngục, từ nhân nên được giải thoát. Vậy nên các pháp đều từ nhân sinh ra. Nếu từ nhân nên được giải thoát thì làm sao nói là thường?. Ông Cù Ðàm cũng nói, sắc từ duyên sinh nên gọi là vô thường. Thọ, tưởng, hành, thức cũng lại như vậy. Như vậy, giải thoát nếu là sắc thì phải biết nó là vô thường. Thọ, tưởng, hành, thức cũng lại như vậy. Nếu lìa năm ấm có giải thoát, thì phải biết tức là hư không. Nếu là hư không thì chẳng được nói rằng, từ nhân duyên sinh. Vì sao vậy? – Vì là thường, là một mà cùng khắp tất cả chỗ. Ông Cù Ðàm cũng nói từ nhân sinh thì tức là khổ vậy. Nếu là khổ thì sao lại nói giải thoát là vui? Ông Cù Ðàm lại nói, Vô thường tức là Khổ, Khổ tức là vô ngã. Nếu là Vô thường, Khổ, Vô ngã thì tức là bất tịnh. Tất cả các pháp sinh ra từ nhân đều Vô thường, Khổ, Vô ngã, bất tịnh thì sao lại nói Niết Bàn tức là Thường Lạc Ngã Tịnh?. Nếu ông Cù Ðàm nói rằng cũng Thường, cũng Vô thường, cũng Khổ, cũng Vô ngã, cũng tịnh và bất tịnh. Như vậy há chẳng phải là lời nói hàng hai sao? Tôi cũng từng từ người trí kỳ cựu trước đây nghe nói đến lời nói này. Phật nếu ra đời thì lời nói không hai. Ông Cù Ðàm hôm nay nói lời nói hàng hai, lại còn nói Phật tức là thân ta đó vậy. Ý nghĩa này ra sao?
Ðức Phật dạy rằng:
– Này Bàlamôn! Như lời ông nói, ta nay hỏi ông thì ông cứ theo ý của mình mà đáp.
Vị Bà la môn nói rằng:
– Hay thay! Thưa ông Cù Ðàm.
Ðức Phật nói rằng:
– Này ông Bà la môn! Tính của ông thường hay vô thường vậy?
Bà la môn đáp rằng:
– Tính của tôi là thường.
– Này Bà la môn! Tính đó có thể tạo tác nhân của tất cả pháp nội ngoại?
– Ðúng vậy! Thưa ông Cù Ðàm!
Ðức Phật nói rằng:
– Này ông Bà la môn! Sao gọi là tác nhân?
– Thưa ông Cù Ðàm! Từ tính sinh ra đại, từ đại sinh ra mạn, từ mạn sinh ra mười sáu pháp. Ðó là đất, nước, lửa, gió, không, năm trí căn; mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, năm nghiệp căn; tay, chân; miệng, tiếng, nam nữ hai căn, tâm bình đẳng căn. Mười sáu pháp đó từ năm pháp sinh ra là sắc, thanh, hương, vị, xúc. Căn bản của hai mươi mốt pháp này có ba: Một là nhiễm, hai là thô, ba là đen (hắc). Nhiễm gọi là ái, thô gọi là sân, đen gọi là vô minh. Này ông Cù Ðàm! Hai mươi bốn pháp này đều nhân tính sinh ra!
– Này ông Bà la môn! Những pháp đại.v.v… này Thường hay Vô thường vậy?
– Thưa ông Cù Ðàm! Tính pháp của ta Thường! Ðại.v.v… các pháp đều Vô thường!
– Này ông Bà la môn! Như trong pháp của ông thì Nhân thường mà Quả vô thường. Nhưng trong pháp của ta nhân tuy vô thường nhưng quả là thường thì có gì lỗi? Này ông Bà la môn! Trong pháp của các ông có hai nhân chăng:
Ðáp rằng:
– Có!
Ðức Phật hỏi:
– Cái gì là hai?
Bà la môn đáp:
– Một là Sinh nhân, hai là Liễu nhân!
– Ðức Phật hỏi:
– Sao là Sinh nhân? Sao là Liễu nhân?
Bà la môn đáp:
– Sinh nhân thì như đất bùn làm ra cái bình. Liễu nhân thì như đèn soi vật!
Ðức Phật nói rằng:
– Hai thứ nhân này nhân vào tính là một. Nếu là một thì có thể khiến cho sinh nhân tác động đến liễu nhân và có thể khiến cho liễu nhân tác động đến sinh nhân chăng?
– Chẳng vậy! Thưa ông Cù Ðàm!
Ðức Phật nói rằng:
– Giả sử, nếu sinh nhân chẳng tác động đến liễu nhân và liễu nhân chẳng tác động đến sinh nhân thì có thể được nói rằng là tướng của nhân không?
Vị Bà la môn nói rằng:
– Tuy chẳng tương tác nhưng có tướng của nhân!
– Này ông Bà la môn! Cái liễu (rõ) của liễu nhân tức là đồng với liễu chăng?
– Chẳng đồng! Thưa ông Cù Ðàm!
Ðức Phật nói rằng:
– Pháp của ta tuy từ vô thường chứng được Niết Bàn mà chẳng phải vô thường. Này Bà la môn! Niết Bàn được từ liễu nhân nên Thường Lạc Ngã Tịnh, còn cái được từ sinh nhân nên vô thường, vô lạc, vô ngã, vô tịnh. Vậy nên lời nói của Như Lai có hai. Như vậy lời nói hàng hai mà không có hai. Vậy nên Như Lai gọi là Vô Nhị Ngữ. Như lời nói của ông, từng nghe từ bên những người trí kỳ cựu trước, Phật ra đời không có lời nói hàng hai, lời nói này hay lắm! Lời nói của tất cả các đức Phật ba đời mười phương không sai. Vậy nên nói rằng, Lời của Phật không hai! Không sai là sao? Là có thì đồng nói có, không thì đồng nói không nên gọi là một nghĩa. Này Bà la môn! Như Lai Thế Tôn tuy gọi là hai lời nhưng được hiểu là một lời. Sao là hai lời mà hiểu (rõ) là một lời? Như mắt thấy sắc là hai lời, sinh ra thức là một lời… cho đến ý và pháp cũng lại như vậy!
Bà la môn nói rằng:
– Thưa ông Cù Ðàm! Ông khéo có thể phân biệt nghĩa của lời nói như vậy mà tôi nay chưa lý giải sự phát ra hai lời mà hiểu được một lời!
Bấy giờ đức Thế Tôn liền vì ông ấy tuyên nói bốn pháp Chân Ðế:
– Này ông Bà la môn! Khổ Ðế thì cũng hai cũng một… cho đến Ðạo đế cũng hai cũng một.
Bà la môn bạch rằng:
– Thưa đức Thế Tôn! Con đã biết rồi!
Ðức Phật dạy rằng:
– Này thiện nam tử! Sao là biết rồi?
Vị Bà la môn bạch rằng:
– Thưa đức Thế Tôn! Khổ Ðế thì tất cả phàm phu hai, thánh nhân một… cho đến Ðạo đế cũng lại như vậy!
Ðức Phật dạy rằng:
– Hay thay! Ông đã hiểu rồi!
Vị Bà la môn bạch rằng:
– Thưa đức Thế Tôn! Con nay nghe pháp rồi, rồi Chính Kiến. Hôm nay con sẽ qui y Phật bảo, Pháp bảo và Tăng bảo. Nguyện xin đấng Ðại Từ cho phép con xuất gia!
Bấy giờ đức Thế Tôn bảo ông Kiều Trần Như rằng:
– Ông phải vì ông Xà Ðề Thủ Na này cạo bỏ râu tóc, cho ông ấy xuất gia.
Ông Kiều Trần Như liền nhận lời dạy bảo của đức Phật, vì ông ấy xuống tóc. Khi ông Kiều Trần Như xuống tay thì có hai thứ rơi xuống theo: Một là râu tóc, hai là phiền não. Tức thời ở tại chỗ ngồi ông Xà Ðề Thủ Na đắc quả A la hán.
Lại có ông Phạm chí họ Bà Tư Tra, lại nói rằng:
– Thưa ông Cù Ðàm! Ông nói Niết Bàn là Thường sao?
– Ðúng vậy! Thưa ông Phạm chí!
Ông Bà Tư Tra nói rằng:
– Thưa ông Cù Ðàm! Ông sẽ chẳng nói không phiền não là Niết Bàn ư?
– Ðúng vậy! Thưa ông Phạm chí!
Ông Bà Tư Tra nói rằng:
– Thưa ông Cù Ðàm! Thế gian có bốn thứ gọi là không: Một là pháp chưa xuất hiện thì gọi đó là không, như bình mà khi đất bùn chưa làm ra thì gọi là không có bình. Hai là pháp đã diệt thì gọi đó là không, như bình vỡ rồi thì gọi là không có bình. Ba là cái khác hỗ tương không thì gọi đó là không, như trong trâu không có ngựa, trong ngựa không có trâu. Bốn là rốt ráo không nên gọi đó là Không, như lông rùa, sừng thỏ. Thưa ông Cù Ðàm! Nếu vì trừ phiền não rồi mà gọi là Niết Bàn thì Niết Bàn tức là Không. Nếu đó không thì sao nói rằng có Thường Lạc Ngã Tịnh?
Ðức Phật dạy rằng:
– Này thiện nam tử! Như vậy Niết Bàn chẳng phải trước không đồng với khi đất bùn chưa là bình. Cũng chẳng phải “diệt không” đồng với cái không của bình vỡ. Cũng chẳng phải rốt ráo không như lông rùa sừng thỏ. Niết Bàn đồng với “khác không”. Này thiện nam tử! Như lời ông nói, thì tuy trong trâu không có ngựa, nhưng chẳng thể nói rằng, trâu cũng Không. Tuy trong ngựa không có trâu nhưng cũng chẳng thể nói ngựa cũng là Không. Niết Bàn cũng vậy, trong phiền não không Niết Bàn, trong Niết Bàn không phiền não. Vậy nên gọi là khác hỗ tương không.
Ông Bà Tư Tra nói rằng:
– Thưa ông Cù Ðàm! Nếu vì khác không là Niết Bàn thì phàm khác Không là không Thường Lạc Ngã Tịnh, thưa ông Cù Ðàm! Sao ông nói rằng, Niết Bàn Thường Lạc Ngã Tịnh?
Ðức Phật dạy rằng:
– Này thiện nam tử! Như lời ông nói thì cái khác không này có ba thứ Không. Trâu, ngựa đều là trước Không sau có, đó gọi là trước Không. Ðã có rồi trở lại Không, đó gọi là hoại Không. Tướng khác Không thì như lời ông nói. Này thiện nam tử! Ba thứ Không này, trong Niết Bàn không có. Vậy nên Niết Bàn Thường Lạc Ngã Tịnh. Như người bệnh của thế gian: Một là bệnh nóng, hai là bệnh gió, ba là bệnh lạnh. Ba thứ bệnh này có ba thứ thuốc có thể trị liệu. Người có bệnh nóng thì tô (váng sữa) có thể trị khỏi. Người có bệnh gió thì dầu có thể trị khỏi. Người có bệnh lạnh thì mật có thể trị khỏi. Ba thứ thuốc này có thể trị liệu ba thứ ác bệnh như vậy. Này thiện nam tử! Trong gió không có dầu, trong dầu không có gió… cho đến trong mật không có lạnh, trong lạnh không có mật. Vậy nên có thể trị. Tất cả chúng sinh cũng lại như vậy, có ba thứ bệnh: Một là tham, hai là sân, ba là si. Như vậy ba bệnh thì có ba thứ thuốc: Quán bất tịnh có thể là thuốc trị tham, quán từ tâm có thể là thuốc trị sân, quán trí nhân duyên có thể là thuốc trừ si. Này thiện nam tử! Vì trừ tham nên tác khởi sự quan sát phi tham, vì trừ sân nên tác khởi sự quan sát phi sân, vì trừ si nên tác khởi sự quan sát phi si. Trong ba thứ bệnh không có ba thứ thuốc, trong ba thứ thuốc không có ba thứ bệnh. Này thiện nam tử! Trong ba thứ bệnh không ba thứ thuốc nên vô thường, vô ngã, vô lạc, vô tịnh. Trong ba thứ thuốc không ba thứ bệnh, vậy nên được xưng là Thường Lạc Ngã Tịnh.
Ông Bà Tư Tra bạch rằng:
– Thưa đức Thế Tôn! Ðức Như Lai vì tôi nói Thường và Vô thường. Sao gọi là Thường? Sao gọi là Vô thường?
Ðức Phật dạy rằng:
– Này thiện nam tử! Sắc là vô thường, sắc giải thoát là thường… cho đến thức là vô thường, thức giải thoát là thường. Này thiện nam tử! Nếu có thiện nam tử, thiện nữ nhân có thể quán từ sắc cho đến thức chính là vô thường thì phải biết người đó chứng được Thường pháp.
Ông Bà Tư Tra bạch rằng:
– Thưa đức Thế Tôn! Con nay đã biết pháp Thường và Vô thường!
Ðức Phật dạy rằng:
– Này thiện nam tử! Ông biết pháp Thường và Vô thường ra sao?
Ông Bà Tư Tra bạch rằng:
– Thưa đức Thế Tôn! Con nay biết sắc của ngã là Vô thường, được giải thoát là Thường… cho đến thức cũng như vậy.
Ðức Phật dạy rằng:
– Này thiện nam tử! Hay thay! Ông nay đã báo đáp thân này.
Ðức Phật bảo ông Kiều Trần Như rằng:
– Ông Bà Tư Tra này đã chứng quả A la hán! Ông hãy đem cho ông ấy pháp khí ba y và bát!
Ông Kiều Trần Như theo đúng lời dạy của đức Phật cho ông ấy y bát. Ông Bà Tư Tra nhận y bát rồi, nói rằng:
– Thưa Ðại đức Kiều Trần Như! Tôi hôm nay nhân tấm thân tệ ác này được quả báo thiện, nguyện xin Ðại đức vì tôi mà khuất ý đi đến chỗ đức Thế Tôn, tuyên nói đầy đủ nỗi lòng của tôi. Tôi đã là người xấu, xúc phạm đến đức Như Lai, dối trá họ Cù Ðàm. Nguyện xin ngài vì tôi sám hối tội này. Tôi cũng chẳng thể trụ lâu trong tấm thân độc hại. Hôm nay xin vào Niết Bàn!
Ông Kiều Trần Như liền đến chỗ đức Phật nói lên như vầy:
– Thưa đức Thế Tôn! Tỳkheo Bà Tư Tra sanh lòng hổ thẹn tự nói mình ngu dại xúc phạm đến đức Như Lai, dối trá họ Cù Ðàm, chẳng thể trụ lâu ở tấm thân độc hại này, hôm nay muốn diệt thân và gởi cho con lời sám hối.
Ðức Phật nói rằng:
– Này Kiều Trần Như! Tỳkheo Bà Tư Tra đã ở chỗ của vô lượng đức Phật quá khứ, thành tựu căn lành, hôm nay thọ lời nói của ta, theo đúng như pháp mà trụ. Do theo đúng như pháp mà trụ nên chứng được chính quả. Các ông nên phải cúng dường thân của ông ấy.
Lúc bấy giờ, ông Kiều Trần Như theo đức Phật nghe rồi, trở lại cho thân ông ấy mà thiết lễ cúng dường. Vào lúc thiêu đốt thân, ông Bà Tư Tra làm đủ thứ thần túc. Những bọn ngoại đạo thấy việc này rồi, cao giọng xướng lên rằng: Ông Bà Tư Tra này đã được chú thuật của ông Cù Ðàm Sa môn. Người này chẳng bao lâu sẽ hơn ông Sa môn Cù Ðàm kia.
Lúc bấy giờ, trong chúng lại có ông Phạm chí tên là Tiên Ni lại nói lên rằng:
– Thưa ông Cù Ðàm! Có Ngã ư?
Ðức Như Lai mặc nhiên (lặng im).
– Thưa ông Cù Ðàm! Không Ngã ư?
Ðức Như Lai mặc nhiên. Lần thứ hai, lần thứ ba cũng hỏi như vậy. Ðức Phật đều mặc nhiên. Ông Tiên Ni nói rằng:
– Thưa ông Cù Ðàm! Nếu tất cả chúng sinh có Ngã khắp tất cả chỗ thì tức là một tác giả! Thưa ông Cù Ðàm! Vì sao ngài mặc nhiên chẳng đáp?
Ðức Phật nói rằng:
– Này ông Tiên Ni! Ông nói Ngã khắp tất cả chỗ ư?
Ông Tiên Ni đáp rằng:
– Thưa ông Cù Ðàm! Chẳng chỉ mình tôi nói mà tất cả kẻ trí cũng nói như vậy.
Ðức Phật dạy rằng:
– Này thiện nam tử! Nếu Ngã cùng khắp tất cả chỗ thì nên phải năm đường thọ báo cùng một lúc. Nếu có năm đường thọ báo một lúc thì Phạm chí các ông vì nhân duyên gì chẳng tạo tác mọi sự ác vì ngăn chận địa ngục? Tu các pháp thiện vì thọ thân trời?
Ông Tiên Ni đáp rằng:
– Thưa ông Cù Ðàm! Trong pháp của tôi thì Ngã có hai thứ: một là ngã của thân tạo tác, hai là ngã của thân thường hằng. Vì ngã của thân tạo tác nên tu lìa khỏi pháp ác để chẳng vào địa ngục, tu các thiện pháp để sinh lên trời.
Ðức Phật nói rằng:
– Này thiện nam tử! Như ông nói Ngã khắp tất cả chỗ. Ngã như vậy thì nếu trong thân tạo tác thì phải biết là vô thường, còn nếu thân tạo tác không có thì làm sao nói khắp được?
– Thưa ông Cù Ðàm! Ngã sở lập (cái do ngã lập nên) và ngã cũng lại trong thân tạo tác, cũng là thường pháp. Thưa ông Cù Ðàm! Như người bị cháy nhà, khi nhà bị cháy, người chủ nhà ấy ra khỏi thì chẳng thể nói rằng, nhà cửa bị cháy, chủ cũng bị thiêu. Pháp của tôi cũng vậy, thân tạo tác này tuy là vô thường nhưng khi đang vô thường thì ngã ra khỏi. Vậy nên ngã của tôi cũng cùng khắp cùng thường hằng.
Ðức Phật dạy rằng:
– Này thiện nam tử! Như lời ông nói, ngã cũng cùng khắp, cũng thường hằng, thì nghĩa này chẳng đúng. Vì sao vậy? Vì cùng khắp có hai thứ: Một là thường, hai là vô thường. Lại có hai thứ nữa: Một là sắc, hai là vô sắc. Vậy nên nếu nói rằng, tất cả có, thì cũng thường, cũng vô thường, cũng sắc, cũng vô sắc. Nếu nói chủ nhà được ra khỏi nên chẳng gọi là vô thường thì nghĩa này chẳng đúng. Vì sao vậy? Vì nhà chẳng gọi là chủ, chủ chẳng gọi là nhà. Vì cái khác cháy, cái khác ra khỏi nên được như vậy, Ngã thì chẳng vậy. Vì sao vậy? Vì Ngã tức là sắc, sắc tức là Ngã, vô sắc tức là Ngã, Ngã tức là vô sắc thì làm sao mà nói khi sắc vô thường thì ngã được ra. Này thiện nam tử! Ý ông nếu cho là tất cả chúng sinh đồng một Ngã thì như vậy tức là trái với thế pháp và xuất thế pháp. Vì sao vậy? Vì pháp thế gian gọi cha, mẹ, con trai, con gái mà nếu Ngã là một thì cha tức là con trai, con trai tức là cha, mẹ tức là con gái, con gái tức là mẹ, oán tức là thân, thân tức là oán, đây tức là đó, đó tức là đây. Vậy nên nếu nói tất cả chúng sinh đồng một ngã thì điều đó liền trái ngược với pháp thế gian và pháp xuất thế gian.
Ông Tiên Ni thưa rằng:
– Tôi cũng chẳng nói tất cả chúng sinh đồng một ngã mà nói mỗi người đều có một ngã.
Ðức Phật nói rằng:
– Này thiện nam tử! Nếu nói mỗi người đều có một ngã thì đó là nhiều ngã. Nghĩa này chẳng đúng. Vì sao vậy? Vì như ông trước đã nói, ngã cùng khắp tất cả. Nếu ngã cùng khắp tất cả thì gốc nghiệp (nghiệp căn) của tất cả chúng sinh nên đồng: khi trời được thấy thì Phật được cũng thấy, khi trời được tạo tác thì Phật được cũng tạo tác, khi trời được nghe thì Phật được cũng nghe. Tất cả các pháp đều cũng như vậy. Nếu trời được thấy chẳng phải Phật được thấy thì chẳng nên nói Ngã cùng khắp tất cả chỗ, còn nếu chẳng cùng khắp thì đó tức là vô thường.
Ông Tiên Ni nói rằng:
– Thưa ông Cù Ðàm! Ngã của tất cả chúng sinh cùng khắp tất cả, pháp cùng phi pháp chẳng cùng khắp tất cả. Do nghĩa này nên Phật được tác khác, trời được tác khác. Vậy nên, thưa ông Cù Ðàm! Chẳng nên nói rằng, khi Phật được thấy thì trời được nên là thấy, khi Phật được nghe thì trời được nên là nghe!
Ðức Phật nói rằng:
– Này thiện nam tử! Pháp cùng phi pháp chẳng phải là nghiệp tác ư?
Ông Tiên Ni nói rằng:
– Thưa ông Cù Ðàm! Chính là sở tác của nghiệp!
Ðức Phật dạy rằng:
– Này thiện nam tử! Nếu pháp và phi pháp là tạo tác của nghiệp thì tức là đồng pháp thì làm sao nói rằng khác? Vì sao vậy? Vì Phật được chỗ nghiệp có thì trời được ngã. Trời được chỗ nghiệp có thì Phật được ngã. Vậy nên khi Phật được tác thì trời cũng được tác. Pháp và phi pháp cũng nên như vậy. Này thiện nam tử! Vậy nên tất cả chúng sinh, pháp cùng phi pháp nếu như vậy thì quả báo sở đắc cũng nên chẳng khác. Này thiện nam tử! Từ hạt sinh ra quả thì hạt này nhất định chẳng suy nghĩ phân biệt: Ngã chỉ sẽ tạo tác quả Bà la môn, chẳng cùng Sát lợi, Tỳ xá, Thủ đà mà tạo tác quả vậy. Vì sao vậy? Vì từ hạt sinh ra quả thì nhất định chẳng ngăn ngại. Bốn dòng họ như vậy. Pháp cùng phi pháp cũng lại như vậy, chẳng thể phân biệt, ngã chỉ sẽ cùng Phật được tác quả, chẳng cùng trời được tác quả, làm trời được quả chẳng làm Phật được quả. Vì sao vậy? Vì nghiệp bình đẳng vậy.
Ông Tiên Ni nói rằng:
– Thưa ông Cù Ðàm! Ví như một ngôi nhà có trăm ngàn ngọn đèn. Bấc đèn tuy có khác nhưng ánh sáng thì không sai.Bấc đèn biệt dị dụ cho pháp và phi pháp. Ánh sáng những ngọn đèn ấy không sai khác dụ cho ngã của chúng sinh.
Ðức Phật nói rằng:
– Này thiện nam tử! Ông nói ánh sáng của đèn dụ cho Ngã thì nghĩa này không đúng! Vì sao vậy? Vì nhà khác và đèn khác. Ánh sáng của đèn này cũng ở tại bấc đèn, cũng sáng cùng khắp trong nhà. Theo lời nói của ông, Ngã nếu như vậy thì bên pháp và phi pháp đều nên có Ngã và trong Ngã cũng nên có pháp và phi pháp. Nếu pháp và phi pháp không có ngã thì chẳng được nói rằng, cùng khắp tất cả chỗ mà nếu đều có thì sao được dùng ánh sáng của bấc đèn làm ví dụ? Này thiện nam tử! Nếu ý ông cho là bấc đèn cùng ánh sáng khác biệt chân thật thì vì nhân duyên gì bấc đèn tăng thì ánh sáng thịnh, bấc đèn khô thì ánh sáng tắt. Vậy nên chẳng nên đem pháp và phi pháp dụ cho bấc đèn, ánh sáng không sai khác dụ cho Ngã vậy. Vì sao vậy? Vì pháp, phi pháp và Ngã ba việc tức là một.
Ông Tiên Ni nói rằng:
– Thưa ông Cù Ðàm! Ông dẫn ra cái ví dụ về đèn thì việc này chẳng tốt. Vì sao vậy? Vì cái dụ về đèn nếu tốt thì tôi đã dẫn ra trước rồi. Như dụ ấy chẳng tốt thì vì sao ngài lại nói?
– Này thiện nam tử! Sự dẫn dụ của ta đều cũng chẳng làm cho tốt vì chẳng tốt là theo ý của ông nói! Dụ này cũng nói lìa khỏi bấc đèn có ánh sáng tức là bấc đèn có ánh sáng. Lòng ông chẳng bình đẳng nên nói đèn và bấc đèn dụ cho pháp và phi pháp, ánh sáng dụ cho Ngã. Vậy nên ta trách ông! Bấc đèn tức là ánh sáng, lìa bấc đèn có ánh sáng. Pháp tức có ngã, ngã tức có pháp, phi pháp tức ngã, ngã tức phi pháp, ông nay vì sao chỉ thọ nhân một bên, còn một bên chẳng thọ nhân? Dụ như vậy thì đối với ông chẳng tốt. Vậy nên ta nay trở lại lấy nó để dạy ông! Này thiện nam tử! Dụ như vậy thì tức là chẳng phải dụ. Cái chẳng phải dụ này đối với ta thì tốt còn đối với ông chẳng tốt. Này thiện nam tử! Nếu ý của ông cho là ta chẳng tốt, ngươi cũng chẳng tốt thì nghĩa này chẳng đúng! Vì sao vậy? Vì thấy người thế gian dao mình hại mình, mình làm người khác hưởng! Sự dẫn dụ của ông cũng lại như vậy, đối với ta thì tốt còn đối với ông chẳng tốt.
Ông Tiên Ni nói rằng:
– Thưa ông Cù Ðàm! Trước ông trách tôi, lòng chẳng bình đẳng, nay lời nói của ông cũng chẳng bình đẳng. Vì sao vậy? Thưa ông Cù Ðàm! Vì hôm nay ông đem cái tốt hướng về mình, đem cái chẳng tốt hướng về phía tôi. Do đó suy ra quả thật là chẳng bình đẳng!
Ðức Phật nói rằng:
– Này thiện nam tử! Như bất bình đẳng của ta có thể phá bất bình đẳng của ông. Vậy nên bình đẳng của ông là bất bình đẳng của ta tức là tốt vậy. Bất bình đẳng của ta phá bất bình đẳng của ông khiến cho ông được bình đẳng tức là ta bình đẳng. Vì sao vậy? Vì đồng với các thánh nhân được bình đẳng!
Ông Tiên Ni nói rằng:
– Thưa ông Cù Ðàm! Tôi luôn là bình đẳng mà sao ông nói rằng, phá hoại cái bất bình đẳng của tôi! Tất cả chúng sinh bình đẳng có Ngã mà sao ông nói rằng, Ngã là bất bình đẳng vậy?
– Này thiện nam tử! Ông cũng nói rằng, sẽ thọ địa ngục, sẽ thọ ngã quỉ, sẽ thọ súc sinh, sẽ thọ người, trời. Nếu Ngã trước đã cùng khắp trong năm đường thì làm sao mà nói sẽ thọ các đường? Ông cũng nói rằng, cha mẹ hòa hợp nhiên hậu sinh ra con. Nếu con trước đã có thì sao lại nói rằng, hòa hợp rồi mới có? Vậy nên một người có thân ở năm đường. Nếu năm chỗ này trước đã có thân thì vì nhân duyên gì mà vì thân tạo nghiệp? Vậy nên chẳng bình đẳng. Này thiện nam tử! Ý ông nếu cho là Ngã chính là tác giả thì nghĩa này chẳng đúng. Vì sao vậy? Vì nếu Ngã là tác giả thì vì nhân duyên gì tự tạo tác việc khổ? Nhưng nay chúng sinh quả thật có chịu khổ. Vậy nên phải biết Ngã chẳng phải là tác giả. Nếu nói rằng, khổ này chẳng phải là sở tác của Ngã, chẳng từ nhân duyên sinh. Tất cả các pháp cũng phải như vậy, chẳng từ nhân duyên sinh thì vì nhân duyên gì mà nói Ngã tạo tác vậy? Này thiện nam tử! Khổ vui của chúng sinh quả thật từ nhân duyên. Như vậy khổ vui có thể tạo ra lo, mừng. Khi lo thì không có mừng, khi mừng thì không lo. Hoặc lo, hoặc mừng thì người trí làm sao nói là thường vậy? Này thiện nam tử! Ông nói Ngã thường. Nếu là thường thì sao nói có mười thời gian khác biệt. Pháp thường chẳng nên có lúc ca la la…. cho đến lúc già. Thường pháp hư không còn không một thời huống là có mười thời! Này thiện nam tử! Ngã thì chẳng phải là lúc ca la la cho đến lúc già thì làm sao nói có mười thời khác biệt? Này thiện nam tử! Nếu ngã là tác giả thì ngã này cũng có lúc thịnh, lúc suy, chúng sinh cũng có lúc thịnh lúc suy. Nếu Ngã là vậy thì sao gọi là thường? Này thiện nam tử! Nếu Ngã là tác giả thì sao mỗi người có linh lợi, có ngu độn khác nhau? Này thiện nam tử! Ngã nếu là tác giả thì Ngã này có thể tạo tác nghiệp thân, nghiệp miệng, nghiệp ý. Nếu sở tác này là của Ngã thì sao miệng nói không có Ngã vậy? Sao tự nghi ngờ có hay không có Ngã vậy? Này thiện nam tử! Ý ông nếu cho là, lìa khỏi mắt có sự thấy thì nghĩa này chẳng đúng. Vì sao vậy? Vì nếu lìa khỏi mắt rồi có sự thấy khác thì cần gì đến mắt này?… Cho đến thân căn cũng lại như vậy. Ý ông nếu cho là Ngã tuy có thể thấy nhưng cần phải nhân vào sự thấy của mắt. Nghĩa này cũng chẳng đúng. Vì sao vậy? Vì như có người nói rằng, hoa Tu mạn na có thể đốt cháy cả thôn lớn. Làm sao có thể đốt? Nhân lửa có thể đốt! Ông lập sự nhận thức về Ngã cũng lại như vậy.
Ông Tiên Ni nói rằng:
– Thưa ông Cù Ðàm! Như người cầm liềm thì có thể cắt cỏ. Ngã nhân năm căn để thấy, nghe… đến chạm xúc cũng lại như vậy.
– Này thiện nam tử! Người và liềm đều khác. Vậy nên cầm liềm có thể có sở tác nhưng rời ra bên ngoài của căn lại không có Ngã khác thì sao nói rằng, Ngã nhân cái căn có thể có sở tác? Này thiện nam tử! Ý ông nếu cho là cầm liềm có thể cắt cỏ, Ngã cũng như vậy thì Ngã này có tay hay là không có tay vậy? Nếu có tay thì sao chẳng tự cầm, nếu không tay thì sao nói rằng, Ngã chính là tác giả? Này thiện nam tử! Cái có thể cắt cỏ tức là liềm, chẳng phải Ngã, chẳng phải người. Nếu Ngã và người có thể cắt thì vì sao phải nhân vào cái liềm? Này thiện nam tử! Người có hai nghiệp: Một là nắm cỏ, hai là cầm liềm. Liềm này chỉ có công nặng đoạn thôi. Chúng sinh thấy pháp cũng lại như vậy, mắt có thể thấy sắc từ sự hòa hợp sinh ra. Nếu từ nhân duyên hòa hợp mà thấy thì kẻ trí làm sao nói rằng có Ngã? Này thiện nam tử! Ý ông nếu cho là thân làm, ngã thọ thì nghĩa này chẳng đúng. Vì sao vậy? Vì thế gian chẳng thấy trời được tác nghiệp mà Phật được thọ quả. Nếu nói rằng, chẳng phải là thân tạo tác, Ngã chẳng nhân thọ thì các ông vì sao từ nhân duyên cầu giải thoát vậy? Thân này của ông trước chẳng phải nhân duyên sinh ra mà được giải thoát rồi thì cũng nên chẳng phải nhân mà lại sinh ra thân. Như thân, tất cả phiền não cũng nên như vậy.
Ông Tiên Ni nói rằng:
– Thưa ông Cù Ðàm! Ngã có hai thứ: Một là biết, hai là không biết. Ngã không biết có thể được thân. Ngã có biết có thể lìa bỏ thân giống như cái bình đất thô đã bị nung rồi mất đi hình sắc cũ lại chẳng sinh trở lại. Phiền não của kẻ trí cũng lại như vậy, đã hoại diệt rồi nhất định chẳng sinh trở lại.
Ðức Phật nói rằng:
– Này thiện nam tử! Cái nói là biết đó là trí có thể biết hay Ngã có thể biết vậy? Nếu trí có thể biết thì vì sao nói rằng, Ngã là biết vậy? Nếu Ngã biết thì vì sao phương tiện lại cầu đến trí? Ý ông nếu cho là Ngã nhân trí mà biết thì đồng với cái dụ về hoa hư hoại. Này thiện nam tử! Ví như tính của cây gai là tự có thể đâm, chẳng được nói rằng, cây cầm gai đâm. Trí cũng như vậy, trí tự có thể biết làm sao nói rằng, Ngã nắm trí để biết? Này thiện nam tử! Như trong pháp của ông, Ngã được giải thoát mà không biết Ngã có được biết Ngã được giải thoát không vậy? Nếu không biết được thì phải biết vẫn còn như cũ với đầy đủ phiền não. Nếu biết được thì phải biết đã có các căn của năm tình. Vì sao vậy? Vì lìa khỏi bên ngoài của căn lại không có cái biết khác. Nếu đủ các căn thì sao lại gọi là được giải thoát vậy? Nếu nói rằng, ngã này, tính của nó thanh tịnh lìa khỏi năm căn thì làm sao nói rằng, cùng khắp năm đường có Ngã? Vì nhân duyên gì mà vì giải thoát nên tu các thiện pháp? Này thiện nam tử! Ví như có người nhổ gai hư không, ông cũng như vậy. Ngã nếu thanh tịnh thì sao lại nói cắt đứt các phiền não? Ý ông nếu cho là chẳng từ nhân duyên chứng được giải thoát thì tất cả súc sinh vì sao chẳng được?
Ông Tiên Ni nói rằng:
– Thưa ông Cù Ðàm! Nếu không Ngã thì ai có thể nhớ nghĩ?
Ðức Phật bảo ông Tiên Ni rằng:
– Nếu có Ngã thì vì duyên gì lại quên? Này thiện nam tử! Nếu niệm là Ngã thì vì nhân duyên gì mà nghĩ đến niệm ác? Nghĩ điều chẳng nên nghĩ? Chẳng nghĩ điều nên nghĩ?
Ông Tiên Ni lại nói rằng:
– Thưa ông Cù Ðàm! Nếu không có Ngã thì ai thấy? Ai nghe?
Ðức Phật dạy rằng:
– Này thiện nam tử! Bên trong có sáu nhập, bên ngoài có sáu trần, trong, ngoài hòa hợp sinh ra sáu thứ thức. Sáu thứ thức này nhân duyên được tên gọi. Này thiện nam tử! Ví như thứ lửa nhân cây được nên gọi là lửa cây, nhân cỏ được nên gọi là lửa cỏ, nhân trấu được nên gọi là lửa trấu, nhân phân trâu được nên gọi là lửa phân trâu. Ý thức của chúng sinh cũng lại như vậy, nhân mắt, nhân hình sắc, nhân ánh sáng, nhân dục gọi là nhãn thức. Này thiện nam tử! Như vậy nhãn thức chẳng ở tại trong mắt… cho đến trong dục, nhưng do bốn việc hòa hợp nên sinh ra thức này… cho đến ý thức cũng lại như vậy. Nếu là nhân duyên hòa hợp nên sinh ra trí thì chẳng nên nói “thấy” tức là Ngã… cho đến xúc tức là Ngã. Này thiện nam tử! Vậy nên ta nói, nhãn thức… cho đến ý thức, tất cả các pháp tức là huyễn vậy. Sao gọi là như huyễn? Là cái vốn không nay có, đã có rồi trở lại không. Này thiện nam tử! Ví như váng sữa, miến (một thứ bún làm từ bột), mật, gừng, hồ tiêu, cây tất bát (cây lá lốt), Bồ đào, hồ đào, thạch lựu, huyên tử… như vậy hòa hợp lại gọi là viên hoan hỷ. Lìa khỏi sự hòa này thì không có hoàn hoan hỷ; trong ngoài sáu nhập đó gọi là chúng sinh, ta, người, sĩ phu. Lìa khỏi sáu nhập trong ngoài thì không có chúng sinh, ta, người, sĩ phu nào khác!
Ông Tiên Ni nói rằng:
– Thưa ông Cù Ðàm! Nếu không có Ngã thì làm sao nói rằng, ta thấy, ta nghe, ta khổ, ta vui, ta lo, ta mừng?
Ðức Phật dạy rằng:
– Này thiện nam tử! Nếu nói: Ta thấy, ta nghe mà gọi là có Ngã thì vì nhân duyên gì thế gian lại nói rằng, sự tạo tác tội của ông chẳng phải việc thấy nghe của ta? Này thiện nam tử! Ví như bốn thứ binh hòa hợp gọi là quân. Như vậy bốn binh chẳng gọi từng thứ một mà đều nói rằng: Quân ta dũng kiện, quân ta thắng quân kia. Việc tạo tác của sáu nhập trong ngoài hòa hợp cũng lại như vậy, tuy chẳng là một nhưng cũng được nói rằng, ta làm, ta chịu, ta thấy, ta nghe, ta khổ, ta vui.
Ông Tiên Ni nói rằng:
– Thưa ông Cù Ðàm! Như lời ông nói, trong ngoài hòa hợp thì ai phát ra tiếng nói: Ta làm, ta chịu…?
Ðức Phật nói rằng:
– Này ông Tiên Ni! Từ nhân duyên vô minh ái sinh ra nghiệp, từ nghiệp sinh ra hữu, từ hữu sinh ra vô lượng tâm số, tâm sinh ra giác quán, giác quán lay động gió, gió theo tâm chạm xúc yết hầu, lưỡi, răng, môi. Chúng sinh tưởng điên đảo mà lên tiếng nói rằng: Ta làm, ta chịu, ta thấy, ta nghe… Này thiện nam tử! Như cái chuông nhỏ gắn ở đầu Tràng nhờ nhân duyên gió nên liền phát ra âm thanh, gió lớn tiếng lớn, gió nhỏ tiếng nhỏ, không có tác giả. Này thiện nam tử! Ví như sắt nóng ném vào trong nước phát ra đủ thứ âm thanh mà trong đó chân thật không có tác giả. Này thiện nam tử! Phàm phu chẳng thể suy nghĩ phân biệt việc như vậy nên nói rằng, có ngã và có ngã sở, ngã tác, ngã thọ!
Ông Tiên Ni nói rằng:
– Như lời ông Cù Ðàm nói, không có ngã và ngã sở thì vì duyên gì lại nói Thường Lạc Ngã Tịnh?
Ðức Phật nói rằng:
– Này thiện nam tử! Ta cũng chẳng nói trong ngoài sáu nhập và sáu thức ý Thường Lạc Ngã Tịnh. Ta đã tuyên nói, diệt sự sinh ra sáu thức của sáu nhập trong ngoài thì gọi đó là Thường. Do thường này nên gọi đó là ngã. Có thường có ngã nên gọi đó là lạc. Thường, Ngã, Lạc nên gọi đó là Tịnh. Này thiện nam tử! Chúng sinh chán khổ, đoạn trừ nhân của khổ này, tự tại xa lìa thì đó gọi là Ngã. Do nhân duyên này nên ta nay tuyên nói Thường Lạc Ngã Tịnh.
Ông Tiên Ni nói rằng:
– Thưa đức Thế Tôn! Nguyện xin đấng Ðại Từ vì con tuyên nói! Con phải làm sao để chứng được Thường Lạc Ngã Tịnh như vậy?
Ðức Phật dạy rằng:
– Này thiện nam tử! Tất cả thế gian từ trước đến nay đầy đủ đại mạn (kiêu mạn) có thể tăng trưởng mạn, cũng lại tạo tác nhân của mạn, nghiệp của mạn. Vậy nên hôm nay họ chịu quả báo mạn, chẳng thể xa lìa tất cả phiền não, được Thường Lạc Ngã Tịnh. Nếu các chúng sinh muốn được xa lìa tất cả phiền não thì trước phải lìa khỏi mạn!
Ông Tiên Ni bạch rằng:
– Thưa đức Thế Tôn! Ðúng vậy! Ðúng vậy! Quả đúng như lời dạy của đức Thánh! Con trước có kiêu mạn! Nhân cái nhân duyên của mạn nên xưng hô đức Như Lai bằng họ Cù Ðàm ấy! Con nay đã lìa khỏi lòng đại mạn như vậy nên thành tâm khải thỉnh cầu pháp: Con làm sao sẽ được Thường Lạc Ngã Tịnh?
Ðức Phật dạy rằng:
– Này thiện nam tử! Hãy lắng nghe! Lắng nghe! Ta nay sẽ vì ông phân biệt giải nói! Này thiện nam tử! Nếu chẳng phải tự mình, chẳng phải người khác, chẳng phải chúng sinh thì xa lìa được pháp đó!
Ông Tiên Ni bạch rằng:
– Thưa đức Thế Tôn! Con nay đã hiểu biết được chính pháp nhãn!
Ðức Phật dạy rằng:
– Này thiện nam tử! Ông đã biết đã hiểu được chính pháp nhãn ra sao?
– Thưa đức Thế Tôn! Cái gọi là sắc thì chẳng phải tự mình, chẳng phải người khác, chẳng phải các chúng sinh… cho đến thức cũng lại như vậy. Con quan sát như vậy nên được Chính pháp nhãn. Thưa đức Thế Tôn! Con nay rất ưa xuất gia tu đạo, nguyện xin ngài hứa cho phép!
Ðức Phật dạy rằng:
– Thiện lai Tỳkheo!
Ông ấy tức thời đầy đủ Phạm hạnh thanh tịnh, chứng quả A la hán.
Trong ngoại đạo lại có Phạm chí họ Ca Diếp lại nói rằng:
– Thưa ông Cù Ðàm! Thân tức là mạng, thân khác, mạng khác!
Ðức Như Lai mặc nhiên. Nói lần thứ hai, lần thứ ba, đức Như Lai cũng lại như vậy. Ông Phạm chí lại nói rằng:
– Thưa ông Cù Ðàm! Nếu người xả thân mà chưa được thân sau thì ở khoảng trung gian ấy đâu có thể chẳng gọi là thân khác, mạng khác? Nếu là khác thì vì sao ngài Cù Ðàm lặng im chẳng đáp?
– Này thiện nam tử! Ta nói, thân mạng đều từ nhân duyên, chẳng phải chẳng nhân duyên. Như thân mạng, tất cả các pháp cũng như vậy.
Ông Phạm chí lại nói rằng:
– Thưa ông Cù Ðàm! Tôi thấy thế gian có pháp chẳng từ nhân duyên sinh.
Ðức Phật nói rằng:
– Này ông Phạm chí! Làm sao ông thấy thế gian có pháp chẳng từ nhân duyên?
Ông Phạm chí nói rằng:
– Tôi thấy lửa lớn đốt cháy bụi cây, gió thổi ngọn lửa rơi ở chỗ khác. Ðó há chẳng gọi là không nhân duyên sao?
Ðức Phật nói rằng:
– Này thiện nam tử! Ta nói lửa này cũng từ nhân duyên sinh, chẳng phải chẳng từ nhân duyên sinh!
Ông Phạm chí nói rằng:
– Thưa ông Cù Ðàm! Khi ngọn lửa lan đi chẳng nhân vào củi than thì làm sao mà nói rằng, nhân vào nhân duyên được?
Ðức Phật dạy rằng:
– Này thiện nam tử! Tuy không củi than nhưng nhân theo gió mà đi. Do nhân duyên gió nên lửa ấy chẳng tắt!
– Thưa ông Cù Ðàm! Nếu người xả thân mà chưa được thân sau thì thọ mạng trung gian lấy cái gì làm nhân duyên?
Ðức Phật nói rằng:
– Này ông Phạm chí! Lấy vô minh cùng ái mà làm nhân duyên. Nhờ hai nhân duyên vô minh và ái nên thọ mạng được trụ. Này thiện nam tử! Có nhân duyên nên thân tức là mạng, mạng tức là thân. Có nhân duyên nên thân khác, mạng khác. Kẻ trí chẳng nên theo một hướng mà nói là thân khác, mạng khác!
Ông Phạm chí nói rằng:
– Thưa đức Thế Tôn! Nguyện xin ngài vì con phân biệt giải nói, khiến cho con được tỏ rõ biết được nhân quả!
Ðức Phật dạy rằng:
– Này Phạm chí! Nhân tức là năm ấm, quả cũng là năm ấm. Này thiện nam tử! Nếu có chúng sinh chẳng đốt lửa thì tức là không có khói.
Ông Phạm chí nói rằng:
– Thưa đức Thế Tôn! Con đã biết rồi! Con đã hiểu rồi!
Ðức Phật dạy rằng:
– Này thiện nam tử! Ông biết ra sao? Hiểu thế nào?
– Thưa đức Thế Tôn! Lửa tức là phiền não, có thể đốt cháy ở địa ngục, ngã quỉ, súc sinh, người, trời. Khói tức là quả báo của phiền não. Nó vô thường, bất tịnh, xú uế đáng ghét nên gọi là khói. Nếu có chúng sinh chẳng tạo tác phiền não thì người đó không có quả báo phiền não. Vậy nên Như Lai nói, chẳng đốt lửa thì không có khói!
– Thưa đức Thế Tôn! Con đã có chính kiến, nguyện xin đức Từ Bi cho phép con xuất gia!
Lúc bấy giờ, đức Thế Tôn bảo ông Kiều Trần Như cho ông Phạm chí này xuất gia thọ giới. Ông Kiều Trần Như nhận lệnh của đức Phật rồi, hòa hợp chúng Tăng lại, cho phép ông ấy xuất gia, thọ cụ túc giới, qua năm ngày rồi, đắc quả A la hán.
Trong ngoại đạo lại có ông Phạm chí tên là Phú Na lại nói rằng:
– Thưa ông Cù Ðàm! Ông thấy pháp thế gian là thường rồi nên nói thường chăng? Nghĩa như vậy thật hay hư vậy? Thường hay vô thường? Hay cũng thường cũng vô thường? Hay chẳng phải thường, chẳng phải vô thường? Có biên hay vô biên? Hay cũng hữu biên cũng vô biên? Hay chẳng phải hữu biên, chẳng phải vô biên? Thân này là mạng hay thân khác mạng khác? Ðức Như Lai sau khi diệt độ như đi khỏi hay chẳng như đi khỏi? Cũng như đi cũng chẳng như đi? Hay chẳng phải như đi chẳng phải chẳng như đi?
Ðức Phật dạy rằng:
– Này Phú Na! Ta chẳng nói thế gian thường, hư hay thật! Là thường, vô thường cũng thường cũng vô thường, chẳng phải thường, chẳng phải vô thường – Hữu biên vô biên, cũng hữu biên cũng vô biên, chẳng phải hữu biên chẳng phải vô biên, là thân là mạng, thân khác mạng khác. Như Lai sau khi diệt độ như đi khỏi, chẳng như đi khỏi, cũng như đi khỏi cũng chẳng như đi khỏi, chẳng phải như đi khỏi, chẳng phải chẳng như đi khỏi!
Ông Phú Na lại bạch rằng:
– Thưa ông Cù Ðàm! Hôm nay ngài thấy tội lỗi gì mà chẳng nói lời nói này?
Ðức Phật nói rằng:
– Này ông Phú Na! Nếu có người nói, thế gian là thường và chỉ lời này là thật còn những lời nói khác là nói dối thì đó gọi là kiến (thấy). Thấy cái chỗ thấy thì đó gọi là kiến hành, đó gọi là kiến nghiệp, đó gọi là kiến trước, đó gọi là kiến phược, đó gọi là kiến khổ, đó gọi là kiến thủ, đó gọi là kiến bố (úy), đó gọi là kiến nhiệt, đó gọi là kiến triền. Này Phú Na! Người phàm phu bị sự trói buộc của kiến, chẳng thể xa lìa sinh già bệnh chết, trôi lăn trong sáu đường, chịu khổ không lường… Cho đến chẳng phải như đi khỏi, chẳng phải chẳng như đi khỏi cũng lại như vậy. Này Phú Na! Ta thấy cái kiến này có những lỗi như vậy. Vậy nên ta chẳng chấp trước, chẳng vì người mà nói!
– Thưa ông Cù Ðàm! Nếu thấy như vậy tội lỗi nên chẳng chấp trước, chẳng nói ra thì, thưa ông Cù Ðàm! Hôm nay thấy gì? Chấp trước gì? Ở đâu? Mà ngài tuyên nói?
Ðức Phật nói rằng:
– Này thiện nam tử! Phàm kiến trước (sự chấp trước của kiến) thì gọi là pháp sinh tử. Như Lai đã lìa khỏi pháp sinh tử. Vậy nên chẳng chấp trước. Này thiện nam tử! Như Lai gọi là Năng kiến, Năng thuyết (giỏi thấy, giỏi nói), chẳng gọi là trước!
– Thưa ông Cù Ðàm! Sao gọi là Năng kiến? Sao gọi là Năng thuyết?
Ðức Phật nói rằng:
– Này thiện nam tử! Ta có thể thấy sáng tỏ Khổ Tập Diệt Ðạo và phân biệt tuyên nói bốn đế như vậy. Ta thấy như vậy nên có thể xa lìa tất cả kiến, tất cả ái, tất cả lưu (dòng chảy), tất cả mạn. Vậy nên ta đầy đủ Phạm hạnh Vô thượng tịch tịnh thanh tịnh, chứng được thân thường hằng. Thân này cũng chẳng phải là Ðông Tây Nam Bắc.
Ông Phú Na nói rằng:
– Thưa ông Cù Ðàm! Vì nhân duyên gì mà thân thường hằng chẳng phải là Ðông Tây Nam Bắc?
Ðức Phật dạy rằng:
– Này thiện nam tử! Ta nay hỏi ông cứ theo ý của mình mà đáp! Ý ông thế nào? Này thiện nam tử! Như ở trước ông nhen đống lửa lớn thì khi sắp nhen đống lửa ấy, ông có biết nó đang nhen nhúm không?
– Biết như vậy, thưa ông Cù Ðàm!
– Khi lửa này tắt thì ông có biết nó tắt không?
– Biết như vậy, thưa ông Cù Ðàm!
– Này Phú Na! Nếu có người hỏi ông, đống lửa trước khi nhen từ đâu đến? Sau khi tắt đi về đâu? Thì ông sẽ đáp ra sao?
– Thưa ông Cù Ðàm! Nếu có người hỏi thế thì tôi sẽ đáp rằng: “Lửa này khi sinh thì nhờ vào mọi duyên. Duyên cũ đã hết mà duyên mới chưa đến thì tắt”.
– Nếu lại có người hỏi: Lửa này tắt rồi đi đến phương nào? Thì ông đáp thế nào?
– Thưa ông Cù Ðàm! Tôi sẽ đáp rằng: “Duyên hết thì tắt (diệt) chẳng đến phương nào cả”.
– Này thiện nam tử! Như Lai cũng vậy! Nếu có sắc vô thường… cho đến thức vô thường nhân vào ái nên nhen nhúm. Nhen nhúm nghĩa là thọ hai mươi lăm cõi hữu. Vậy nên khi nhen nhúm thì có thể nói là lửa ở Ðông Tây Nam Bắc. Hiện tại ái diệt thì quả báo của hai mươi lăm cõi hữu chẳng nhen nhúm. Do chẳng nhen nhúm nên chẳng thể nói lửa có ở Ðông Tây Nam Bắc. Này thiện nam tử! Như Lai đã diệt sắc vô thường… cho đến thức vô thường. Vậy nên thân thường hằng. Thân nếu là thường thì chẳng nói có Ðông Tây Nam Bắc.
Ông Phú Na nói rằng:
– Tôi muốn nói một thí dụ! Nguyện xin ngài cho phép!
Ðức Phật nói rằng:
– Hay thay! Hay thay! Tùy ý ông! Hãy nói đi!
– Thưa đức Thế Tôn! Như bên ngoài cái làng lớn có rừng cây Ta La. Trong rừng có một cây sinh trước, sống đủ một trăm năm. Lúc đó người chủ rừng tưới cây này, dùng nước tùy lúc sửa trị. Cây ấy cũ mục, da dẻ, cành lá đều rơi rụng hết, chỉ phần cốt lõi tồn tại. Ðức Như Lai cũng vậy, những thứ cũ mục vốn có đều đã trừ hết, chỉ còn có tất cả pháp chân thật tồn tại. Thưa đức Thế Tôn! Con nay rất ưa xuất gia tu đạo!
Ðức Phật dạy rằng:
– Thiện lai Tỳkheo!
Nói lời này xong, ông ấy tức thời được xuất gia, lậu tận, chứng được quả A la hán.
KINH ÐẠI BÁT NIẾT BÀN
– Quyển thứ ba mươi lăm hết –