Quyển thứ 16
20. PHẨM PHẠM HẠNH PHẦN 3
Bồ tát Ca Diếp nói rằng:
– Như đức Phật Thế Tôn vì ngài Xá Lợi Phất nói về sự hiểu biết của thế gian thì con cũng được biết. Nói về sự chẳng biết của thế gian thì con cũng đều biết. Nghĩa ấy thế nào?
– Này thiện nam tử! Tất cả thế gian chẳng biết, chẳng thấy, chẳng giác Phật tính. Nếu có người biết – thấy – giác Phật tính thì chẳng gọi là thế gian mà gọi là Bồ tát. Người thế gian cũng lại chẳng biết, chẳng thấy, chẳng giác mười hai bộ Kinh, mười hai nhân duyên, bốn điên đảo, bốn đế, ba mươi bảy phẩm, Vô Thượng Chánh Ðẳng Chánh Giác, Ðại Bát Niết Bàn mà nếu họ biết – thấy – giác thì chẳng gọi là Thế gian, phải gọi là Bồ tát. Này thiện nam tử! Ðó gọi là thế gian chẳng biết, chẳng giác. Sao gọi là sự biết – thấy – giác của thế gian? Ðó là gọi Phạm thiên, Tự Tại thiên, Bát Tý thiên… Khi tính vi trần thì pháp và phi pháp là chủ tạo hóa, thế giới chung – thỉ, đoạn – thường hai kiến. Nói rằng, Sơ thiền cho đến Phi phi tưởng gọi là Niết Bàn, này thiện nam tử! Ðó gọi là sự biết – thấy – giác của thế gian. Ðại Bồ tát đối với việc như vậy cũng biết – thấy – giác. Bồ tát biết – thấy – giác như vậy rồi, nếu nói rằng, chẳng biết, chẳng thấy, chẳng giác thì đó là hư vọng mà pháp hư vọng thì tức là tội. Vì là tội nên đọa vào địa ngục. Này thiện nam tử! Hoặc nam, hoặc nữ, hoặc Samôn, hoặc Bàlamôn nói rằng, không có Ðạo, Bồ Ðề, Niết Bàn thì phải biết bọn người này gọi là Nhất xiển đề, quyến thuộc của ma gọi là bài báng pháp. Bài báng pháp như vậy gọi là bài báng chư Phật. Người như vậy chẳng gọi là thế gian, chẳng gọi là chẳng phải thế gian.
Bấy giờ, Bồ tát Ca Diếp nghe việc như vậy rồi liền dùng kệ tụng mà khen ngợi đức Phật rằng:
Ðấng thương xót sinh chúng
Nên nay con về nương
Khéo nhổ mọi tên độc
Nên xưng Ðại Y Vương.
Dùng thế y trị liệu
Tuy khỏi nhưng lại sinh.
Sự trị liệu của Phật
Chẳng tái phát, rốt cùng.
Thuốc cam lộ của Phật
Ðem ban cho chúng sinh
Mà chúng sinh đã uống
Thì chẳng chết, chẳng sinh.
Vì con nay đức Phật
Diễn nói Ðại Niết Bàn.
Chúng sinh nghe bí tạng
Chẳng sinh diệt được liền.
Bồ tát Ca Diếp nói bài kệ này rồi, liền bạch đức Phật rằng:
– Thưa đức Thế Tôn! Như lời đức Phật nói, tất cả thế gian chẳng biết, thấy, giác, Bồ tát đều có thể biết, thấy, giác. Nếu giả sử Bồ tát là người thế gian thì chẳng được nói rằng, thế gian chẳng biết, chẳng thấy, chẳng giác mà Bồ tát này có thể biết, thấy, giác. Nếu chẳng phải thế gian thì có tướng gì khác?
Ðức Phật dạy rằng:
– Này thiện nam tử! Nói rằng, Bồ tát thì cũng là thế gian, cũng chẳng phải thế gian. Chẳng biết, thấy, giác thì gọi là thế gian, còn biết, thấy, giác thì chẳng gọi là thế gian. Ông nói rằng, có gì khác, thì ta nay sẽ nói! Này thiện nam tử! Hoặc nam hoặc nữ, nếu có nghe Kinh Niết Bàn này đầu tiên mà liền sinh ra kính tín phát tâm Vô Thượng Chánh Ðẳng Chánh Giác thì đó gọi là Bồ tát thế gian. Tất cả thế gian chẳng biết – thấy – giác thì như vậy Bồ tát cũng đồng thế gian chẳng biết – thấy – giác. Bồ tát nghe Kinh Niết Bàn này rồi biết có thế gian chẳng biết – thấy – giác. Bồ tát biết – thấy – giác này biết việc đó rồi liền tự tư duy: “Ta phải làm sao dùng phương tiện tu tập cho được biết – thấy – giác”. Rồi lại tự nghĩ rằng: “Chỉ phải thâm tâm tu trì tịnh giới!” Này thiện nam tử! Bấy giờ, Bồ tát do nhân duyên này, vào đời vị lai ở tại chỗ sinh đến, giới thường thanh tịnh. Ðại Bồ tát do giới thanh tịnh nên ở tại chỗ sinh đến, thường không kiêu mạn, tà kiến, nghi hoặc và nhất định chẳng nói rằng, Như Lai rốt ráo vào với Niết Bàn. Ðó gọi là Bồ tát tu trì tịnh giới. Giới đã thanh tịnh, tiếp theo là tu Thiền định. Do tu Ðịnh nên ở tại nơi sinh đến, chánh niệm chẳng quên. Ðó là tất cả chúng sinh đều có Phật tính, mười hai bộ Kinh, các đức Phật Thế Tôn thường-lạc-ngã-tịnh, tất cả Bồ tát an trụ ở Kinh Phương Ðẳng Ðại Niết Bàn, đều thấy Phật tính. Những việc như vậy.v.v… hành giả nhớ mà chẳng quên. Nhân tu Ðịnh nên hành giả được mười một “không”. Ðó gọi là Bồ tát tu thanh tịnh Ðịnh. Giới Ðịnh đã đủ, tiếp theo hành giả tu Tuệ. Do tu Tuệ nên mới chẳng kể chấp trước trong thân có ngã, trong ngã có thân, là thân, là ngã, chẳng phải thân, chẳng phải ngã… Ðó gọi là Bồ tát tu tập Tịnh Tuệ. Do tu tuệ nên việc thọ trì giới bền chặc chẳng động. Này thiện nam tử! Ví như núi Tu Di chẳng bị sự khuynh động của bốn thứ gió. Ðại Bồ tát cũng lại như vậy, chẳng bị sự khuynh động của bốn điên đảo. Này thiện nam tử! Bấy giờ Bồ tát tự biết – thấy – giác việc thọ trì giới không có khuynh động. Ðó gọi là sự biết – thấy – giác của Bồ tát, chẳng phải thế gian vậy. Này thiện nam tử! Bồ tát thấy sự trì giới bền chặc chẳng động, lòng không hối hận. Không hối hận nên lòng được hoan hỷ. Ðược hoan hỷ nên lòng được duyệt lạc. Ðược duyệt lạc nên lòng yên ổn. Lòng yên ổn nên được Vô động định. Ðược Vô động định nên được thật tri kiến. Ðược thật tri kiến nên chán lìa sinh tử. Chán lìa sinh tử nên liền được Giải thoát. Ðược giải thoát nên thấy ánh sáng Phật tính. Ðó gọi là sự biết – thấy – giác của Bồ tát, chẳng phải thế gian vậy. Này thiện nam tử! Ðó gọi là thế gian chẳng biết – thấy – giác mà là sự biết – thấy – giác của Bồ tát.
Ngài Ca Diếp lại nói rằng:
– Sao gọi là Bồ tát tu trì tịnh giới, tâm không hối hận?… cho đến thấy sáng rõ được Phật tính?
Ðức Phật dạy rằng:
– Này thiện nam tử! Giới (cấm) thế gian thì chẳng gọi là thanh tịnh. Vì sao vậy? Vì giới thế gian là đối với có nên tính bất định, chẳng phải rốt ráo, chẳng thể rộng vì tất cả chúng sinh. Do nghĩa này nên gọi là bất tịnh. Do bất tịnh nên có lòng hối hận. Do hối hận nên lòng chẳng hoan hỷ. Không hoan hỷ thì không duyệt lạc. Không duyệt lạc thì không yên ổn. Không yên ổn nên không có Bất động định. Không Bất động định nên không tri kiến chân thật. Không thật tri kiến thì không chán lìa. Không chán lìa thì không giải thoát. Không giải thoát nên chẳng thấy Phật tính. Chẳng thấy Phật tính nên nhất định chẳng thể được Ðại Bát Niết Bàn. Ðó gọi là Giới thế gian chẳng thanh tịnh. Này thiện nam tử! Ðại Bồ tát thanh tịnh giới là giới chẳng phải giới, chẳng phải là có, nhất định rốt ráo, vì chúng sinh. Ðó gọi là giới thanh tịnh của Bồ tát vậy. Này thiện nam tử! Ðại Bồ tát ở trong tịnh giới, tuy chẳng muốn sinh lòng hối hận, nhưng lòng không hối hận tự nhiên mà sinh ra. Này thiện nam tử! Ví như có người cầm giữ gương sáng, chẳng hẹn thấy mặt mà hình dáng mặt tự hiện lên, cũng như người nông phu gieo hạt vào ruộng tốt, chẳng hẹn mọc mầm mà mầm tự mọc ra, cũng như thắp đèn, chẳng hẹn tiêu diệt bóng tối mà bóng tối tự diệt. Này thiện nam tử! Ðại Bồ tát kiên trì tịnh giới, lòng không hối hận tự nhiên mà sinh ra cũng lại như vậy. Do tịnh giới nên lòng được hoan hỷ. Này thiện nam tử! Như người đoan chính tự thấy diện mạo, lòng sinh hoan hỷ, người trì tịnh giới cũng lại như vậy. Này thiện nam tử! Người phá giới thấy giới bất tịnh, lòng chẳng hoan hỷ. Như người tàn phế tự thấy diện mạo, chẳng sinh hỷ duyệt, người phá giới cũng lại như vậy. Này thiện nam tử! Ví như người chăn trâu có hai người con gái, một người mang bình đựng cao sữa, một người mang bình đựng nước uống. Cả hai đều cùng đến thành phố để bán, ở trên đường đi trợt chân ngã, cả hai bình đều vỡ. Một người thì hoan hỷ, một người thì sầu não. Trì giới, phá giới cũng lại như vậy. Người trì giới thì lòng hoan hỷ mà lòng hoan hỷ thì liền suy nghĩ: “Các đức Phật Như Lai ở trong Niết Bàn nói rằng, có người có thể trì giới thanh tịnh thì được Niết Bàn. Ta nay tu tập tịnh giới như vậy cũng ứng được Niết Bàn. Do nhân duyên này nên lòng duyệt lạc.
Ngài Ca Diếp lại thưa rằng:
– Hỷ cùng với lạc có gì sai biệt?
– Này thiện nam tử! Khi Ðại Bồ tát chẳng làm ác thì gọi là hoan hỷ, lòng trì tịnh giới thì gọi đó là Lạc. Này thiện nam tử! Ðại Bồ tát quan sát ở sinh tử thì gọi là Hỷ, thấy Ðại Niết Bàn thì gọi đó là Lạc. Dưới thì gọi là Hỷ, trên thì gọi là Lạc. Lìa khỏi Thế cộng pháp thì gọi đó là Hỷ, được Bất cộng pháp thì gọi đó là Lạc. Do giới thanh tịnh nên thân thể nhẹ nhàng mềm mại, miệng không thô ác, lỗi lầm. Bồ tát bấy giờ, hoặc thấy, hoặc nghe, hoặc ngữi, hoặc thưởng thức, hoặc chạm xúc, hoặc biết… đều không có các thứ ác. Do không ác nênlòng được yên ổn. Do yên ổn nên được tịch định. Ðược tịch định nên được tri kiến chân thật. Do thấy biết chân thật nên chán lìa sinh tử. Chán lìa sinh tử thì được Giải thoát. Ðược Giải thoát nên được thấy Phật tính. Thấy Phật tính nên được Ðại Niết Bàn. Ðó gọi là trì giới thanh tịnh của Bồ tát, chẳng phải là giới của thế gian. Vì sao vậy? Này thiện nam tử! Vì sự thọ trì tịnh giới của Ðại Bồ tát có năm pháp tá trợ. Sao gọi là năm? Một là tín, hai là tàm, ba là quí, bốn là thiện tri thức, năm là tôn kính giới. Bồ tát lìa khỏi ngũ cái nên thấy thanh tịnh, lìa khỏi ngũ kiến nên lòng không lưới nghi, lìa khỏi năm nghi, một là nghi Phật, hai là nghi Pháp, ba là nghi Tăng, bốn là nghi giới, năm là nghi chẳng phóng dật. Bồ tát bấy giờ, liền được năm căn là tín, niệm, tinh tấn, định, tuệ. Ðược năm căn nên được năm thứ Niết Bàn là sắc giải thoát, cho đến thức giải thoát. Ðó gọi là trì giới thanh tịnh của Bồ tát, chẳng phải giới của thế gian vậy. Này thiện nam tử! Ðó gọi là sự chẳng biết, chẳng thấy, chẳng giác của thế gian mà là sự biết – thấy – giác của Bồ tát.
Này thiện nam tử! Nếu đệ tử của ta thọ trì, đọc tụng, ghi chép, giải nói Kinh Ðại Niết Bàn mà có người phá giới, có người quở trách, khinh chê, hủy nhục mà nói rằng: “Nếu Kinh Ðại Niết Bàn bí tạng có uy lực thì sao khiến cho ông hủy phạm việc thọ giới. Nếu người thọ trì Kinh Niết Bàn này mà hủy phạm cấm giới thì phải biết Kinh này là không có uy lực. Nếu không uy lực thì tuy lại đọc tụng nhưng là không có lợi ích”. Do sự khinh khi, hủy báng Kinh Niết Bàn này nên lại khiến cho vô lượng vô biên chúng sinh rơi vào địa ngục. Kẻ thọ trì Kinh này mà hủy phạm giới thì tức là ác tri thức của chúng sinh, chẳng phải là đệ tử của ta, là quyến thuộc của ma. Người như vậy, ta cũng chẳng cho thọ trì Kinh điển này. Thà khiến cho chẳng thọ, chẳng trì, chẳng tu, chẳng để cho người hủy phạm giới thọ trì tu tập. Này thiện nam tử! Nếu đệ tử của ta thọ trì, đọc tụng, ghi chép, diễn nói Kinh Niết Bàn thì phải chính thân tâm, thận trọng chớ có cử động đùa cợt, khinh tháo. Thân là điều hí, tâm là khinh động. Lòng cầu có gọi là khinh động. Thân tạo các nghiệp gọi là điều hí. Nếu đệ tử của ta cầu có, tạo nghiệp thì chẳng nên thọ trì Kinh điển Ðại Thừa Ðại Niết Bàn này. Nếu có người thọ trì Kinh như vậy thì người ta sẽ khinh chê, quở trách mà nói lên rằng: “Nếu Kinh Ðại Niết Bàn, Bí tạng của Phật có uy lực thì sao lại khiến cho ông cầu có, tạo nghiệp? Nếu người trì Kinh mà cầu có, tạo nghiệp thì phải biết Kinh này không uy lực. Nếu không uy lực thì tuy thọ trì nhưng là không lợi ích. Duyên vào sự khinh chê, hủy báng Kinh Niết Bàn này nên lại khiến cho vô lượng vô biên chúng sinh rơi vào địa ngục. Kẻ thọ trì Kinh này mà cầu có, tạo nghiệp thì chính là ác tri thức (bạn xấu) của chúng sinh, chẳng phải là đệ tử của ta, chính là quyến thuộc của ma. Lại nữa, này thiện nam tử! Nếu đệ tử của ta thọ trì, đọc tụng, ghi chép, diễn nói Kinh Ðại Niết Bàn thì chớ nói phi thời! Chớ nói phi quốc (chẳng phải đất nước đáng nói)! Chớ nói mà chẳng ai thỉnh! Chớ nói bằng tấm lòng khinh khi! Chớ nói khắp nơi nơi! Chớ nói để tự khen! Chớ nói để khinh người khác. Chớ nói để diệt Phật pháp! Chớ nói để rực sáng Thế pháp! Này thiện nam tử! Nếu đệ tử của ta thọ trì Kinh này, chẳng phải lúc mà nói… cho đến thế pháp rực sáng thì người ta sẽ khinh khi, quở trách mà nói rằng: “Nếu Kinh Ðại Niết Bàn, bí mật tạng của đức Phật có uy lực thì sao khiến cho ông chẳng phải lúc mà nói… cho đến thế pháp rực sáng mà nói. Nếu người thọ trì Kinh tạo tác sự nói như vậy thì phải biết Kinh này là không uy lực. Nếu Kinh không uy lực thì tuy thọ trì nhưng là không lợi ích”. Duyên vào sự khinh khi, hủy báng Kinh Niết Bàn nên khiến cho vô lượng chúng sinh rơi vào địa ngục. Người thọ trì Kinh này, chẳng phải lúc mà nói… cho đến thế pháp rực sáng mà nói thì chính là ác tri thức của chúng sinh, chẳng phải là đệ tử của ta, chính là quyến thuộc của ma. Này thiện nam tử! Nếu người thọ trì muốn nói Ðại Niết Bàn, nói Phật tính, nói bí mật tạng của Như Lai, nói Ðại Thừa, nói Kinh Phương Ðẳng, nói Thanh Văn thừa, nói Bích Chi Phật thừa, nói giải thoát, thấy Phật tính… thì trước tiên phải thanh tịnh thân mình. Do thân thanh tịnh nên không quở trách. Không quở trách nên khiến cho vô lượng người đối với Ðại Niết Bàn phát sinh thanh tịnh tín. Tín tâm đã sinh nên cung kính Kinh này. Nếu nghe một bài kệ, một câu, một chữ ở người nói pháp mà được phát tâm Vô Thượng Chánh Ðẳng Chánh Giác thì phải biết người nói pháp đó chính là thiện tri thức chân thật của chúng sinh, chẳng phải ác tri thức, chính là đệ tử của ta, chẳng phải quyến thuộc của ma. Ðó gọi là Bồ tát, chẳng phải là thế gian vậy. Này thiện nam tử! Ðó gọi là sự chẳng biết chẳng thấy chẳng giác của thế gian mà chính là sự biết – thấy – giác của Bồ tát.
Lại nữa, này thiện nam tử! Sao lại gọi là sự chẳng biết – thấy – giác của tất cả thế gian mà chính là sự biết – thấy – giác của Bồ tát? Ðó là sáu niệm xứ! Những gì là sáu? Là niệm Phật, niệm Pháp, niệm Tăng, niệm Giới, niệm Thí, niệm Thiên (trời). Này thiện nam tử! Sao gọi là niệm Phật? Là niệm Như Lai Ứng Cúng Chánh Biến Tri Minh Hành Túc Thiện Thệ Thế Gian Giải Vô Thượng Sĩ Ðiều Ngự Trượng Phu Thiên Nhân Sư Phật Thế Tôn thường trụ chẳng biến dị, đầy đủ mười lực, bốn vô sở úy, Ðại sư tử hống, gọi là Ðại Samôn, Ðại Bàlamôn, Ðại tịnh rốt ráo đến được Bờ kia, không người có thể thắng, không người thấy đỉnh, không có bố úy, chẳng kinh, chẳng động, một mình không bạn bè, không thầy tự giác ngộ… thành tựu báu trí như tật trí (trí nhanh chóng), đại trí, lợi trí, thâm trí, giải thoát trí, bất cộng trí, quảng phổ trí, tất cảnh trí (trí rốt ráo)…, vua voi trong loài người, vua trâu trong loài người, vua rồng trong loài người, đấng trượng phu trong loài người, hoa sen hoa phân đà lợi trong loài người, đấng điều ngự nhân sư, bậc đại thí chủ, đấng địa pháp sư. Do biết pháp nên gọi là Ðại pháp sư. Do biết nghĩa nên gọi là Ðại pháp sư. Do biết thời nên gọi là Ðại pháp sư. Do biết đủ nên gọi là Ðại pháp sư. Do biết Ngã nên gọi là Ðại pháp sư. Do biết đại chúng nên gọi là Ðại pháp sư. Do biết đủ thứ tính của chúng sinh nên gọi là Ðại pháp sư. Do biết các căn lợi, độn, trung bình nên gọi là Ðại pháp sư. Do nói trung đạo nên gọi là Ðại pháp sư.
Sao gọi là Như Lai, đúng như lời nói của chư Phật quá khứ chẳng biến dị? Sao gọi là bất biến? các đức Phật quá khứ vì độ chúng sinh nên nói mười hai bộ Kinh. Như Lai cũng vậy nên gọi là Như Lai. Các đức Phật Thế Tôn từ sáu Balamật, ba mươi bảy phẩm, mười một không lại đến Ðại Niết Bàn. Như Lai cũng vậy. Vậy nên hiệu Phật là Như Lai vậy. Các đức Phật Thế Tôn vì chúng sinh nên tùy nghi phương tiện khai thị Tam thừa, thọ mạng không lường, chẳng thể xưng kể. Như Lai cũng vậy. Vậy nên Phật hiệu là Như Lai vậy.
Sao gọi là Ứng? Pháp thế gian đều gọi là oán gia. Phật ứng hại nên gọi là Ứng. Phàm bốn ma thì chính là ôán địch của Bồ tát. Các đức Phật Như Lai khi làm Bồ tát, có thể dùng trí tuệ phá hoại bốn ma. Vậy nên gọi là Ứng. Lại nữa, Ứng thì gọi là viễn ly (xa lìa). Khi làm Bồ tát cần phải xa lìa vô lượng phiền não nên gọi là Ứng. Lại nữa, Ứng gọi là lạc. Các đức Phật quá khứ khi làm Bồ tát, tuy ở trong vô lượng Atăngkỳ kiếp, vì chúng sinh nên chịu các khổ não nhưng nhất định không gì chẳng vui mà thường lạc. Như Lai cũng vậy nên gọi là Ứng. Lại nữa, Ứng là tất cả người, trời nên dùng đủ thứ hương hoa, chuỗi ngọc, tràng phan, kỹ nhạc mà cúng dường Phật. Vậy nên gọi là Ứng.
Sao gọi là Chánh biến tri? Chánh là chẳng điên đảo. Biến Tri là đối với bốn điên đảo không gì chẳng thông đạt. Lại nữa, Chánh gọi là khổ hạnh. Biến Tri là biết nhân khổ hạnh quyết định có khổ quả. Lại nữa, Chánh là gọi giữa thế gian. Biến Tri là rốt cùng nhất định biết tu tập trung đạo thì được Vô Thượng Chánh Ðẳng Chánh Giác. Lại nữa, Chánh gọi là có thể tính, có thể lường, có thể nói lên. Biến Tri là chẳng thể tính, chẳng thể lường, chẳng thể nói lên. Vậy nên hiệu Phật là Chánh Biến Tri. Này thiện nam tử! Thanh Văn, Duyên Giác cũng có Biến Tri, cũng chẳng Biến Tri. Vì sao vậy? Vì Biến Tri là gọi năm ấm, mười hai nhập, mười tám giới. Thanh Văn, Duyên Giác cũng được Biến Tri. Ðó gọi là Biến Tri. Sao gọi là chẳng Biến Tri? Này thiện nam tử! Giả sử hàng Nhị Thừa, ở vô lượng kiếp, quan sát một sắc ấm mà chẳng thể biết hết. Do nghĩa này nên Thanh Văn, Duyên Giác không có Biến Tri.
Sao gọi là Minh Hành Túc? Minh là gọi được vô lượng thiện quả. Hành là gọi Chân đi (cước túc). Thiện quả là gọi Vô Thượng Chánh Ðẳng Chánh Giác. Chân đi thì gọi là Giới, Tuệ. Ði bằng chân trí tuệ được Vô Thượng Chánh Ðẳng Chánh Giác nên gọi là Minh Hành Túc. Lại nữa, Minh gọi là Chú, Hành gọi là Cát, Túc gọi là Quả. Này thiện nam tử! Ðó là nghĩa của thế gian. Chú gọi là Giải thoát, Cát gọi là Vô Thượng Chánh Ðẳng Chánh Giác, Quả gọi là Ðại Bát Niết Bàn. Vậy nên gọi là Minh Hành Túc. Lại nữa, Minh là gọi ánh sáng, Hành là gọi Nghiệp, Túc là gọi Quả. Này thiện nam tử! Ðó gọi là nghĩa của thế gian. Ánh sáng là gọi chẳng phóng dật, nghiệp là gọi sáu Balamật, quả là gọi Vô Thượng Chánh Ðẳng Chánh Giác. Lại nữa, Minh là gọi ba minh, một là Bồ tát minh, hai là Chư Phật minh, ba là Vô minh minh. Bồ tát minh tức là Bát nhã Balamật. Chư Phật minh tức là Phật nhãn. Vô minh minh tức là rốt ráo không. Hành là ở vô lượng kiếp, vì chúng sinh nên tu các thiện nghiệp. Túc là sáng thấy Phật tính. Do nghĩa này nên gọi là Minh Hành Túc. Sao gọi là Thiện Thệ? Thiện là gọi cao, Thệ là gọi chẳng cao. Này thiện nam tử! Ðó gọi là nghĩa của thế gian. Cao là gọi Vô Thượng Chánh Ðẳng Chánh Giác. Chẳng cao tức là tâm Như Lai. Này thiện nam tử! Tâm nếu cao thì chẳng gọi là Như Lai. Vậy nên Như Lai gọi là Thiện Thệ. Lại nữa, Thiện là gọi thiện tri thức, Thệ là quả của thiện tri thức. Này thiện nam tử! Ðó gọi là nghĩa của thế gian. Thiên tri thức tức là mới phát tâm. Quả là gọi Ðại Bát Niết Bàn. Như Lai chẳng xả bỏ sự phát tâm đầu tiên, được Ðại Niết Bàn. Vậy nên Như Lai gọi là Thiện Thệ. Lại nữa, Thiện là gọi tốt đẹp, Thệ là gọi có. Này thiện nam tử! Ðó gọi là nghĩa thế gian. Tốt đẹp là gọi thấy Phật tính, có là gọi Ðại Niết Bàn. Này thiện nam tử! Tính của Niết Bàn thật chẳng phải có. Các đức Phật Thế Tôn nhân thế gian nên nói rằng là có. Này thiện nam tử! Ví như người đời thật không có con mà nói rằng có con, thật không có đạo (đường) mà nói rằng có đạo, Niết Bàn cũng vậy, nhân thế gian nên nói rằng là có. Các đức Phật Thế Tôn thành Ðại Niết Bàn nên gọi là Thiện Thệ.
Này thiện nam tử! Sao gọi là Thế Gian Giải? Này thiện nam tử! Thế gian là gọi năm ấm, Giải là gọi sự biết. Các đức Phật Thế Tôn giỏi biết năm ấm nên gọi là Thế Gian Giải. Lại nữa, Thế gian là gọi năm dục, Giải là gọi chẳng đắm trước, chẳng đắm trước năm dục nên gọi là Thế Gian Giải. Lại, Thế Gian Giải là tất cả Thanh Văn, Duyên giác ở vô lượng Atăngkỳ thế giới của phương Ðông chẳng biết, chẳng thấy, chẳng giải mà các đức Phật đều biết, đều thấy, đều giải. Phương Nam, phương Tây, phương Bắc, bốn phương bàng, phương trên, phương dưới cũng lại như vậy. Vậy nên hiệu Phật là Thế Gian Giải. Lại, Thế gian là tất cả phàm phu. Giải là biết nhân quả thiện ác của các phàm phu, chẳng phải là sự biết của Thanh Văn, Duyên Giác, chỉ có Phật mới có thể biết. Vậy nên hiệu Phật là Thế Gian Giải. Lại, Thế gian là gọi hoa sen, Giải là gọi chẳng bẩn (bất ô). Này thiện nam tử! Ðó là nghĩa của thế gian. Hoa sen tức là Như Lai. Chẳng bẩn là Như Lai chẳng bị sự ô nhiễm của tám pháp thế gian. Vậy nên hiệu Phật là Thế Gian Giả. Lại, Thế Gian Giải là các đức Phật, Bồ tát gọi là Thế Gian Giải. Vì sao vậy? Vì các đức Phật, Bồ tát thấy thế gian nên gọi là Thế Gian Giải. Này thiện nam tử! Như nhân ăn được mạng nên gọi ăn là mạng. Các đức Phật, Bồ tát cũng lại như vậy, thấy thế gian nên gọi là Thế Gian Giải. Sao gọi là Vô Thượng Sĩ? Thượng Sĩ thì gọi đó là đoạn (chặt đứt). Không có cái để đoạn thì gọi là Vô Thượng Sĩ. Các đức Phật Thế Tôn không có phiền não nên không có cái để đoạn. Vậy nên hiệu Phật là Vô Thượng Sĩ. Lại Thượng Sĩ là gọi tranh tụng. Vô Thượng Sĩ là không có tranh tụng mà Như Lai không có tranh tụng. Vậy nên hiệu Phật là Vô Thượng Sĩ. Lại, Thượng Sĩ là lời nói có thể hoại. Vô Thượng Sĩ là lời nói chẳng thể hoại mà lời nói của Như Lai là lời chẳng thể hoại của tất cả chúng sinh. Vậy nên hiệu Phật là Vô Thượng Sĩ. Lại Thượng Sĩ là gọi Thượng tòa. Vô Thượng Sĩ là gọi Vô Thượng tòa, các đức Phật ba đời lại không có ai qua khỏi. Vậy nên hiệu Phật là Vô Thượng Sĩ. Thượng là gọi mới, Sĩ là gọi cũ. Thể các đức Phật Thế Tôn là Ðại Niết Bàn không mới, không cũ. Vậy nên hiệu Phật là Vô Thượng Sĩ. Sao gọi là Ðiều Ngự Trượng Phu? Tự mình đã trượng phu, lại điều phục trượng phu. Này thiện nam tử! Nói rằng, Như Lai thật chẳng phải trượng phu, chẳng phải chẳng trượng phu, nhân điều phục trượng phu nên gọi Như Lai là trượng phu vậy. Này thiện nam tử! Tất cả trai gái nếu đủ bốn pháp thì gọi là trượng phu. Những gì là bốn? Một là thiện tri thức, hai là có thể nghe pháp, ba là suy nghĩ nghĩa, bốn là theo đúng lời nói tu hành. Này thiện nam tử! Nếu nam hay nữ đủ bốn pháp này thì gọi là Trượng phu. Này thiện nam tử! Nếu có nam tử không có bốn pháp này thì chẳng được gọi là Trượng phu. Vì sao vậy? Vì thân tuy là trượng phu nhưng hành động đồng với súc sinh mà Như Lai điều phục hoặc nam hoặc nữ. Vậy nên hiệu Phật là Ðiều Ngự Trượng Phu. Lại nữa, này thiện nam tử! Như người cầm cương ngựa (điều khiển ngựa) phàm có bốn thứ, một là chạm lông, hai là chạm da, ba là chạm thịt, bốn là chạm xương. Tùy theo sự chạm xúc ấy xứng với ý người cầm cương. Như Lai cũng vậy, dùng bốn thứ pháp điều phục chúng sinh. Một là nói về sinh liền khiến cho người nghe thọ lời Phật dạy như chạm vào lông ngựa ấy là ngựa theo ý người cầm cương. Hai là nói về sinh, già liền khiến cho người nghe thọ lời Phật dạy như chạm vào lông, da thì ngựa ấy theo ý người cầm cương. Ba là nói về sinh và cả lão, bệnh liền khiến cho người nghe thọ lời Phật dạy, như chạm vào lông da, thịt thì ngựa ấy theo ý người cầm cương. Bốn là nói về sinh, già, bệnh và chết liền khiến cho người nghe thọ lời Phật dạy, như chạm vào lông, da, thịt và xương thì ngựa ấy theo ý người cầm cương. Này thiện nam tử! Người cầm cương điều phục ngựa không có quyết định, Như Lai Thế Tôn điều phục chúng sinh nhất định chẳng chẳng rỗng không. Vậy nên hiệu Phật là Ðiều Ngự Trượng Phu. Sao gọi là Thiên Nhân Sư? Sư có hai thứ, một là thiện giáo (lời dạy tốt), hai là ác giáo (lời dạy xấu). Các đức Phật, Bồ tát thường dùng thiện pháp dạy các chúng sinh. Những gì là thiện pháp? Ðó là thiện của thân, miệng, ý. Các đức Phật, Bồ tát dạy các chúng sinh đều nói lời như vầy: “Này thiện nam tử! Ông phải xa lìa thân chẳng thiện nghiệp! Vì sao vậy? Vì ác nghiệp của thân có thể xa lìa là được giải thoát. Vậy nên ta dùng pháp này dạy ông. Nếu nghiệp ác này chẳng thể xa lìa, được giải thoát thì nhất định ta chẳng dạy ông khiến cho xa lìa vậy”. Nếu các chúng sinh lìa khỏi nghiệp ác rồi mà còn rơi vào ba đường ác thì không có điều đó. Do xa lìa nên thành Vô Thượng Chánh Ðẳng Chánh Giác, được Ðại Niết Bàn. Vậy nên các đức Phật, Bồ tát thường dùng pháp này giáo hóa chúng sinh. Miệng, ý cũng vậy. Vậy nên hiệu Phật là Vô Thượng Sư. Lại nữa, xưa chưa được đạo, nay đã được rồi, đem đạo sở đắc vì chúng sinh giảng nói. Từ xưa đến nay chưa tu phạm hạnh, nay đã tu xong, đem điều đã tu vì chúng sinh giảng nói. Tự phá vô minh, lại vì chúng sinh phá hoại vô minh. Tự được tịnh mục (mắt thanh tịnh), lại vì chúng sinh phá trừ mù tối, khiến cho họ được tịnh nhãn. Tự biết Nhị đế, lại vì chúng sinh diễn nói Nhị đế. Ðã tự giải thoát, lại vì chúng sinh nói pháp giải thoát. Tự qua khỏi vô biên dòng sông lớn sinh tử, lại khiến cho chúng sinh đều được qua khỏi hết. Tự được Vô úy, lại dạy chúng sinh khiến cho họ không kinh sợ. Ðã tự Niết Bàn lại vì chúng sinh diễn nói Ðại Niết Bàn. Vậy nên hiệu Phật là Vô Thượng Sư. Thiên là gọi ngày. Trên trời ngày dài đêm ngắn. Vậy nên gọi là Thiên. Lại nữa, Thiên là gọi không sầu não, thường hưởng thụ khoái lạc. Vậy nên gọi là Thiên. Lại nữa, Thiên là gọi đèn sáng, có thể phá đen tối mà làm nguồn ánh sáng lớn. Vậy nên gọi là Thiên. Cũng do có thể phá nghiệp ác đen tối, được các nghiệp thiện mà sinh lên trời. Vậy nên gọi là Thiên. Lại nữa, Thiên là gọi Cát (tốt). Do cát tường nên được gọi là Thiên. Lại nữa, Thiên là gọi mặt trời. Mặt trời có ánh sáng nên gọi mặt trời là Thiên. Do những nghĩa đó nên gọi là Thiên vậy. Nhân là gọi có thể nhiều ân nghĩa. Lại nữa, Nhân là thân, miệng nhu nhuyến. Lại nữa, Nhân là gọi có kiêu mạn. Lại nữa, Nhân là có thể phá kiêu mạn. Này thiện nam tử! Các đức Phật tuy làm Ðại Sư Vô thượng của tất cả chúng sinh, nhưng trong Kinh nói làm Thiên Nhân Sư. Vì sao vậy? Này thiện nam tử! Trong các chúng sinh chỉ có trời cùng người là có thể phát tâm Vô Thượng Chánh Ðẳng Chánh Giác, có thể tu Thập thiện nghiệp đạo, có thể được quả Tu đà hoàn, quả Tư đà hàm, quả A na hàm, quả A la hán, đạo Bích Chi Phật, được Vô Thượng Chánh Ðẳng Chánh Giác. Vậy nên hiệu Phật là Thiên Nhân Sư. Sao gọi là Phật? Phật là gọi Giác. Ðã tự giác ngộ lại có thể giác ngộ người khác. Này thiện nam tử! Ví như có người hay biết có giặc thì giặc không thể làm gì. Ðại Bồ tát hiểu biết tất cả vô lượng phiền não mà hiểu rõ rồi thì khiến cho các phiền não không thể làm điều gì được. Vậy nên gọi là Phật. Do sự giác ngộ đó nên chẳng sinh, chẳng già, chẳng bệnh, chẳng chết. Vậy nên gọi là Phật Bà Dà Bà (Thế Tôn) thì Bà Dà gọi là Phá, Bà gọi là phiền não. Có khả năng phá phiền não nên gọi là Bà Dà Bà. Lại, người có khả năng thành tựu các thiện pháp, lại có khả năng giỏi giải nghĩa các pháp, có đại công đức không ai có thể hơn, có danh tiếng lớn vang khắp mười phương. Lại là người có khả năng đại huệ thí đủ thứ lại ở vô lượng Atằng kiếp đã vất bỏ nữ căn. Này thiện nam tử! Nếu nam hay nữ mà có thể nghĩ đến Phật (niệm Phật) như vậy thì hoặc đi, hoặc đứng, hoặc ngồi, hoặc nằm, hoặc ngày, hoặc đêm, hoặc sáng, hoặc tối… thường được chẳng lìa khỏi thấy Phật Thế Tôn. Này thiện nam tử! Vì sao gọi là Như Lai Ứng Chánh Biến Tri… cho đến Bà Dà Bà mà có như vậy vô lượng công đức đại danh xưng vậy? Này thiện nam tử! Ðại Bồ tát ở vô lượng Atăngkỳ kiếp xưa, cung kính cha mẹ, hòa thượng, các thầy, các trưởng lão thượng tòa, ở vô lượng kiếp thường vì chúng sinh mà làm bố thí, kiên trì cấm giới, tu tập nhẫn nhục, siêng làm tinh tấn, thiền định, trí tuệ, đại từ, đại bi, đại hỷ, đại xả. Vậy nên hôm nay Bồ tát Mahatát được thân Kim Cương với ba mươi hai tướng tốt, tám mươi vẻ đẹp. Lại nữa, Bồ tát thuở xưa, vô lượng Atăngkỳ kiếp đã tu tập năm căn Tín, Tấn, Niệm, Ðịnh, Tuệ, đối với các sư trưởng cung kính cúng dường, thường vì pháp lợi, chẳng vì lợi dưỡng. Bồ tát nếu thọ trì mười hai bộ kinh, hoặc đọc, hoặc tụng, luôn vì chúng sinh muốn khiến cho họ giải thoát yên ổn, khoái lạc thì nhất định chẳng vì mình. Vì sao vậy? Vì Bồ tát thường tu bằng tâm xuất thế gian và tâm xuất gia, tâm vô vi, tâm không tranh tụng, tâm không cấu uế, tâm không trói buộc, tâm không thủ trước, tâm không che trùm, tâm không vô ký, tâm không sinh tử, tâm không lưới nghi, tâm không tham dục, tâm không sân nhuế, tâm không ngu si, tâm không kiêu mạn, tâm không uế trược, tâm không phiền não, tâm không khổ, tâm vô lượng, tâm quãng đại, tâm hư không, tâm vô, tâm vô vô (không không), tâm điều phục, tâm chẳng hộ, tâm không che giấu, tâm không thế gian, tâm thường định, tâm thường tu, tâm thường giải thoát, tâm không báo đền, tâm vô nguyện, tâm thiện nguyện, tâm vô ngữ, tâm nhu nhuyến, tâm chẳng trụ, tâm tự tại, tâm vô lậu, tâm Ðệ nhất nghĩa, tâm bất thoái, tâm vô thường, tâm chánh chân, tâm không dua nịnh quanh co, tâm thuần thiện, tâm không nhiều ít, tâm không keo kiệt, tâm không phàm phu, tâm không Thanh Văn, tâm không Duyên Giác, tâm thiện tri, tâm Giới (cõi) tri, tâm sinh giới (cõi) tri, tâm tự tại giới… Vậy nên hôm nay Ðại Bồ tát được mười lực, bốn vô sở úy, Ðại Bi, ba (?) niệm xứ, Thường-Lạc-Ngã-Tịnh. Vậy nên Ðại Bồ tát được xưng là Như Lai… cho đến Bà Dà Bà. Ðó gọi là Ðại Bồ tát niệm Phật. Sao gọi là Ðại Bồ tát niệm pháp? Này thiện nam tử! Ðại Bồ tát suy nghĩ điều có thể nói của các đức Phật là pháp tối diệu, tối thượng. Nhân pháp này nên có thể khiến cho chúng sinh được quả hiện tại. Chỉ chánh pháp này không có thời tiết (?) mà là điều thấy được của pháp nhãn, chẳng phải là nhục nhãn nhìn thấy, nhưng chẳng thể dùng ví dụ làm so sánh, chẳng sinh, chẳng xuất, chẳng trụ, chẳng diệt, chẳng thỉ, chẳng chung, vô vi, vô số, kẻ không nhà vì họ làm nhà, không chỗ về làm chỗ về, không sáng làm sáng, chưa đến bờ kia khiến cho đến bờ kia, vì chỗ không hương làm vô ngại hương, chẳng thể thấy thì nhìn thấy, chẳng động, chẳng chuyển, chẳng dài, chẳng ngắn, vĩnh viễn đoạn dứt các niềm vui mà vui yên ổn rốt ráo, vi diệu, chẳng phải sắc đoạn dứt sắc mà cũng là sắc… cho đến chẳng phải thức đoạn dứt thức mà cũng là thức, chẳng phải nghiệp đoạn nghiệp, chẳng phải kết đoạn kết, chẳng phải vật đoạn vật mà cũng là vật, chẳng phải giới (cõi) đoạn giới mà cũng là giới, chẳng phải hữu đoạn hữu mà cũng là hữu, chẳng phải nhập đoạn nhập mà cũng là nhập, chẳng phải nhân đoạn nhân mà cũng là nhân, chẳng phải quả đoạn quả mà cũng là quả, chẳng phải hư, chẳng phải thật đoạn tất cả thật mà cũng là thật, chẳng phải sinh, chẳng phải diệt vĩnh viễn đoạn sinh diệt mà cũng là diệt, chẳng phải tướng, chẳng phải phi tướng đoạn tất cả tướng mà cũng là tướng, chẳng phải giáo, chẳng phải chẳng giáo mà cũng là thầy dạy, chẳng phải sợ, chẳng phải an đoạn tất cả sợ mà cũng là an, chẳng phải nhẫn, chẳng phải chẳng nhẫn vĩnh viễn đoạn chẳng nhẫn mà cũng là nhẫn, chẳng phải dừng (chỉ) chẳng phải chẳng dừng đoạn tất cả dừng mà cũng là dừng, tất cả pháp đỉnh đều có thể vĩnh viễn đoạn tất cả phiền não, vô tướng thanh tịnh vĩnh viễn thoát khỏi các tướng, chỗ trụ rốt ráo của vô lượng chúng sinh, có thể diệt tất cả lửa rực sinh tử, chính là chỗ du cư của chư Phật thường trụ chẳng biến dị. Ðó gọi là Bồ tát niệm pháp. Sao gọi là niệm Tăng? Các đức Phật Thánh Tăng theo đúng như pháp mà trụ, thọ pháp chính trực, thuần theo tu hành, chẳng thể nhìn thấy, chẳng thể nắm bắt, chẳng thể phá hoại, không thể nhiễu hại, chẳng thể nghĩ bàn, ruộng phước, thần giúp đỡ của tất cả chúng sinh, tuy là ruộng phước nhưng không gì thọ nhận, thanh tịnh dơ bẩn, vô lậu vô vi, rộng khắp vô biên. Lòng thánh tăng điều hòa, nhu nhuyến, bình đẳng không hai, không có nhiễu hại ô trược, thường chẳng biến dị. Ðó gọi là niệm Tăng. Sao gọi là niệm Giới? Bồ tát suy nghĩ: “Có giới chẳng phá, chẳng lậu, chẳng hoại, chẳng tạp, tuy không hình sắc mà có thể hộ trì, tuy không chạm xúc đối tác nhưng khéo tu phương tiện, có thể được đầy đủ, không có lỗi lầm, sự khen ngợi của chư Phật, Bồ tát, chính là nhân của Ðại Phương Ðẳng Ðại Niết Bàn. Này thiện nam tử! Ví như đất đai, thuyền bè, chuỗi ngọc, biển cả, nước tro, nhà cửa, dao kiếm, cây cầu, lương y, diệu dược, A dà đà dược, ngọc báu Như ý, chân cẳng, mắt, cha mẹ, lạnh lẽo… không thể trộm cướp, chẳng thể nhiễu hại, lửa chẳng thể đốt cháy, nước chẳng thể trôi dạt, bậc thang lên núi lớn, thắng tràng diệu bảo của các đức Phật, Bồ tát. Nếu trụ ở giới này thì được quả Tu đà hoàn, ta cũng có phần nhưng ta chẳng cần. Vì sao vậy? Vì nếu ta được quả Tu đà hoàn này thì chẳng thể rộng độ tất cả chúng sinh. Nếu trụ ở giới này mà được Vô Thượng Chánh Ðẳng Chánh Giác thì ta cũng có phần, là sở dục của ta. Vì sao vậy? Vì nếu được Vô Thượng Chánh Ðẳng Chánh Giác thì ta sẽ vì chúng sinh rộng nói diệu pháp mà tạo tác sự cứu hộ. Ðó gọi là Ðại Bồ tát niệm giới. Sao gọi là niệm thí? Ðại Bồ tát quan sát sâu sắc việc bố thí này mới là cái nhân của Vô Thượng Chánh Ðẳng Chánh Giác. Các đức Phật, Bồ tát thân cận, tu tập bố thí như vậy thì ta cũng thân cận, tu tập như vậy. Nếu chẳng huệ thí thì chẳng thể trang nghiêm bốn bộ chúng. Bố thí tuy chẳng thể đoạn trừ rốt ráo kết sử mà có thể đoạn trừ phá kiến ở tại phiền não. Do nhân duyên bố thí nên thường được sự khen ngợi của chúng sinh ở vô lượng vô biên thế giới nhiều như cát sông Hằng trong mười phương. Ðại Bồ tát thí cho chúng sinh ăn tức là thí cho mạng của họ. Do quả báo này nên khi thành Phật thường trụ chẳng biến dị. Do thí cho Lạc nên khi Bồ tát thành Phật thì được an lạc. Khi Bồ tát bố thí thì đúng như pháp cầu tài (của cải), chẳng lấn hiếp sự bố thí đó (có ý lợi dụng). Vậy nên khi thành Phật được Niết Bàn thanh tịnh. Khi Bồ tát bố thí thì khiến cho chúng sinh chẳng cầu mà được. Vậy nên khi thành Phật được tự tại Ngã. Do nhân duyên bố thí nên khiến cho người khác được sức lực. Vậy nên khi thành Phật thu hoạch được mười lực. Do nhân duyên bố thí nên khiến cho người khác được lời nói. Vậy nên khi thành Phật được bốn vô ngại. Các đức Phật Bồ tát tu tập sự bố thí này làm nhân của Niết Bàn, ta cũng tu tập bố thí như vậy để làm nhân của Niết Bàn. Rộng nói như trong Tạp hoa (?). Sao gọi là niệm thiên? Có cõi bốn thiên vương… cho đến cõi Phi tưởng phi phi tưởng. Nếu có lòng tin được cõi bốn thiên vương thì ta cũng có phần. Nếu giới, đa văn, bố thí, trí huệ mà được cõi bốn thiên vương… cho đến được cõi Phi tưởng phi phi tưởng thì ta cũng có phần. Nhưng chẳng phải là điều ham muốn của ta. Vì sao vậy? Vì cõi bốn thiên vương… cho đến cõi Phi tưởng phi phi tưởng đều là vô thường. Do vô thường nên sinh, già, bịnh chết. Do nghĩa này nên chẳng phải là điều ham muốn của ta. Ví như sự huyễn hóa dối gạt được người ngu, người trí tuệ thì chẳng mê hoặc họ được. Như huyễn hóa tức là cõi bốn thiên vương… cho đến cõi Phi tưởng phi phi tưởng. Người ngu tức là tất cả phàm phu. Ta thì chẳng đồng với người phàm phu ngu. Ta từng nghe có Ðệ nhất nghĩa thiên là gọi các đức Phật, Bồ tát thường trụ chẳng biến dị. Do thường trụ nên chẳng sinh, chẳng già, chẳng bệnh, chẳng chết. ta vì chúng sinh tinh cần cầu đến Ðệ nhất nghĩa thiên. Vì sao vậy? Vì Ðệ nhất nghĩa thiên có thể khiến cho chúng sinh đoạn trừ phiền não giống như cây Như ý. Nếu ta có Tin… cho đến có Tuệ thì có thể được Ðệ nhất nghĩa thiên này. Ta sẽ vì chúng sinh rộng vì chúng sinh phân biệt, giảng nói Ðệ nhất nghĩa thiên. Ðó gọi là Ðại Bồ tát niệm Thiên. Này thiện nam tử! Ðó gọi là Bồ tát chẳng phải thế gian vậy. Ðó là thế gian chẳng biết – thấy – giác mà là sự biết – thấy – giác của Bồ tát. Này thiện nam tử! Nếu đệ tử của ta cho là thọ trì, đọc tụng, ghi chép, diễn nói mười hai bộ Kinh và cả việc thọ trì, đọc tụng, ghi chép, phu diễn, giải nói Kinh Ðại Niết Bàn là ngang bằng, không sai biệt thì nghĩa này chẳng vậy. Vì sao vậy? Này thiện nam tử! Vì Kinh Ðại Niết Bàn tức là tạng bí mật thậm thâm của các đức Phật Thế Tôn. Vì tạng bí mật thậm thâm của chư Phật này tức là thắng hơn. Này thiện nam tử! Do nghĩa này nên Kinh Ðại Niết Bàn rất kỳ lạ, rất đặc biệt, chẳng thể nghĩ bàn!
Bồ tát Ca Diếp bạch đức Phật rằng:
– Thưa đức Thế Tôn! Con cũng biết Kinh Ðại Niết Bàn này rất kỳ lạ rất đặc biệt chẳng thể nghĩ bàn, Phật Pháp, chúng Tăng chẳng thể nghĩ bàn. Bồ tát, Bồ Ðề, Kinh Ðại Niết Bàn cũng chẳng thể nghĩ bàn. Thưa đức Thế Tôn! Do nghĩa gì mà lại nói rằng, Bồ tát chẳng thể nghĩ bàn?
– Này thiện nam tử! Ðại Bồ tát không có người dạy mà có thể tự phát tâm Bồ Ðề. Ðã phát tâm rồi thì Bồ tát siêng tu tinh tấn. Giả sử lửa lớn thiêu đốt thân, đầu, Bồ tát nhất định chẳng cầu cứu, xả bỏ tâm niệm pháp. Vì sao vậy? Vì Ðại Bồ tát thường tự suy nghĩ: Ta ở vô lượng Atăngkỳ kiếp, hoặc ở tại địa ngục, ngã quỉ, súc sinh, trong loài người, trên cõi trời bị sự thiêu đốt của ngọn lửa các kết sử, ban đầu chưa từng được một pháp quyết định. Pháp quyết định tức là Vô Thượng Chánh Ðẳng Chánh Giác. Ta vì Vô Thượng Chánh Ðẳng Chánh Giác nhất định chẳng thủ hộ tiếc nuối thân, tâm cùng mạng sống. Ta vì Vô Thượng Chánh Ðẳng Chánh Giác mà giả sử thân nát vụn giống như vi trần nhất định chẳng buông bỏ siêng năng tinh tấn. Vì sao vậy? Vì lòng siêng tinh tấn tức là cái nhân của Vô Thượng Chánh Ðẳng Chánh Giác. Này thiện nam tử! Như vậy Bồ tát chưa thấy Vô Thượng Chánh Ðẳng Chánh Giác mà có thể chẳng tiếc, mạng thân như vậy, huống lại là đã thấy rồi. Vậy nên Bồ tát chẳng thể nghĩ bàn. Lại nữa, chẳng thể nghĩ bàn là việc thấy sinh tử có vô lượng tội ác của Ðại Bồ tát chẳng phải là sự bì kịp của hàng Thanh Văn, Duyên Giác. Tuy Bồ tát biết vô lượng lỗi ác của sinh tử nhưng vì chúng sinh nên ở trong đó chịu khổ chẳng sinh ra chán lìa. Vậy nên lại gọi là chẳng thể nghĩ bàn. Ðại Bồ tát vì chúng sinh nên tuy ở tại địa ngục chịu các khổ não nhưng giống như niềm vui Tam thiền. Vậy nên lại gọi là chẳng thể nghĩ bàn. Này thiện nam tử! Ví như nhà ông trưởng giả bị hỏa hoạn. Ông trưởng giả thấy rồi, chạy ra khỏi nhà, các con ông ở sau, chưa thoát được nạn lửa. Bấy giờ, ông trưởng giả nhất định biết sự tai hại của lửa, vì các con nên quay trở lại xông vào cứu hộ, chẳng đoái hoài gì đến hiểm nạn ấy. Ðại Bồ tát cũng lại như vậy, tuy biết sinh tử có nhiều lỗi ác nhưng vì chúng sinh nên ở lại đó chẳng chán. Vậy nên lại gọi là chẳng thể nghĩ bàn. Này thiện nam tử! Vô lượng chúng sinh phát tâm Bồ Ðề, thấy trong sinh tử có nhiều những lỗi ác, lòng liền thoái mất nên hoặc làm Thanh Văn, hoặc làm Duyên Giác. Nếu có Bồ tát nghe Kinh này thì nhất định chẳng thoái mất tâm Bồ Ðề mà làm Thanh Văn, Bích Chi Phật. Như vậy Bồ tát tuy lại chưa vào bậc sơ địa Bất Ðộng mà tâm kiên cố không có thoái mất. Vậy nên lại gọi là chẳng thể nghĩ bàn. Này thiện nam tử! Nếu có người nói rằng, ta có thể bơi qua nước của biển cả. Lời nói như vậy có thể nghĩ bàn chăng?
– Thưa đức Thế Tôn! Lời nói như vậy, hoặc có thể nghĩ bàn, hoặc chẳng thể nghĩ bàn. Vì sao vậy? Vì nếu người qua được thì chẳng thể nghĩ bàn. A tu la qua được thì có thể nghĩ bàn.
– Này thiện nam tử! Ta cũng chẳng nói A tu la mà chính là nói người vậy!
– Thưa đức Thế Tôn! Trong loài người cũng có người có thể nghĩ bàn, có người chẳng thể nghĩ bàn. Thưa đức Thế Tôn! Người cũng có hai hạng, một là Thánh nhân, hai là Phàm phu. Người Phàm phu thì chẳng thể nghĩ bàn. Người Thánh nhân thì có thể nghĩ bàn.
– Này thiện nam tử! Ta nói phàm phu, chẳng nói Thánh nhân.
– Thưa đức Thế Tôn! Nếu là phàm phu thì quả thật chẳng thể nghĩ bàn!
– Này thiện nam tử! Người phàm phu thật chẳng thể qua được nước biển cả. Như vậy Bồ tát thật có thể qua khỏi biển cả sinh tử. Vậy nên lại gọi là chẳng thể nghĩ bàn. Này thiện nam tử! Nếu có người có thể dùng tơ của ngó sen để treo núi Tu Di lên thì có thể nghĩ bàn chăng?
– Chẳng vậy, thưa đức Thế Tôn!
– Này thiện nam tử! Ðại Bồ tát ở trong khoảnh khắc một niệm có thể xưng lường hết tất cả sinh tử! Vậy nên lại gọi là chẳng thể nghĩ bàn. Này thiện nam tử! Ðại Bồ tát đã ở vô lượng Atăngkỳ kiếp thường quan sát sinh tử, vô thường, vô ngã, vô lạc, vô tịnh mà vì chúng sinh phân biệt diễn nói Thường-Lạc-Ngã-Tịnh, tuy nói như vậy nhưng chẳng phải là tà kiến. Vậy nên lại gọi là chẳng thể nghĩ bàn. Này thiện nam tử! Như người vào trong nước mà nước chẳng thể nhận chìm vào trong lửa mạnh mà lửa chẳng thể thiêu đốt. Việc như vậy chẳng thể nghĩ bàn. Ðại Bồ tát cũng lại như vậy, tuy ở trong sinh tử nhưng chẳng bị sự não hại của sinh tử. Vậy nên lại gọi là chẳng thể nghĩ bàn. Này thiện nam tử! Con người có ba hạng là Thượng, Trung và Hạ. Người Hạ phẩm khi mới vào thai thì tác khởi ý nghĩ rằng: “Ta nay ở nơi nhà xí, chỗ mọi dơ bẩn tụ về, vùng đặt tử thi, trong chỗ nhiều gai nhọn, chỗ rất đen tối”. Khi ra khỏi thai thì họ lại nghĩ rằng: “Ta nay ra khỏi nhà xí, ra khỏi chỗ mọi dơ bẩn… cho đến ra khỏi chỗ rất đen tối”. Người Trung phẩm khi vào thai thì nghĩ rằng: “Ta nay vào trong rừng cây, trong dòng sông thanh tịnh, phòng ốc nhà cửa”. Khi ra cũng vậy. Người Thượng phẩm, khi vào thì nghĩ rằng: “Ta thăng lên điện đường, ở tại vùng rừng hoa, cưỡi ngựa, cưỡi voi đi lên núi cao”. Khi ra cũng vậy. Ðại Bồ tát, khi mới vào thai tự biết vào, khi trụ biết trụ, khi ra biết ra nhất định chẳng sinh ra lòng tham, sân mà chưa được bậc trụ địa đầu tiên. Vậy nên lại gọi là chẳng thể nghĩ bàn. Này thiện nam tử! Vô Thượng Chánh Ðẳng Chánh Giác quả thật chẳng thể dùng thí dụ để làm so sánh. Này thiện nam tử! Tâm cũng chẳng thể dùng phương tiện thí dụ để làm so sánh mà đều có thể nói. Ðại Bồ tát không có thầy hỏi han, thọ học mà có thể được Vô Thượng Chánh Ðẳng Chánh Giác. Ðược pháp này rồi lòng không keo kiệt tiếc lận, Bồ tát thường vì chúng sinh mà diễn nói. Vậy nên lại gọi là chẳng thể nghĩ bàn. Này thiện nam tử! Ðại Bồ tát có thân viễn ly (xa lìa) chẳng phải là miệng, có miệng viễn ly chẳng phải là thân, có chẳng phải thân miệng mà cũng viễn ly. Thân viễn ly là lìa khỏi sát sinh, trộm cắp, dâm dục. Ðó gọi là thân viễn ly chẳng phải là miệng. Miệng viễn ly là lìa khỏi vọng ngữ, lưỡng thiệc, ác khẩu, lời nói vô nghĩa. Ðó gọi là miệng viễn ly chẳng phải là thân. Chẳng phải thân chẳng phải miệng viễn ly là gọi sự xa lìa tham dục, sân nhuế, tà kiến. Này thiện nam tử! Ðó gọi là chẳng phải thân chẳng phải miệng mà chính là viễn ly. Này thiện nam tử! Ðại Bồ tát chẳng thấy một pháp là thân, là nghiệp và cùng lìa khỏi chủ mà cũng có lìa. Vậy nên lại gọi là chẳng thể nghĩ bàn. Miệng cũng như vậy. Này thiện nam tử! Từ thân lìa khỏi thân, từ miệng lìa khỏi miệng, từ tuệ xa lìa chẳng phải thân, chẳng phải miệng. Này thiện nam tử! Thật có tuệ này nhưng chẳng thể khiến cho Bồ tát xa lìa. Vì sao vậy? Này thiện nam tử! Không có một pháp có thể hủy hoại, có thể tạo tác. Tính pháp hữu vi sinh khác, diệt khác. Vậy nên tuệ này chẳng thể viễn ly. Này thiện nam tử! Tuệ này chẳng thể phá, lửa chẳng thể đốt, nước chẳng thể làm thối rữa, gió chẳng thể lay động, đất chẳng thể trì giữ, sinh chẳng thể sinh, già chẳng thể già, trụ chẳng thể trụ, hoại chẳng thể hoại, tham chẳng thể tham, sân chẳng thể sân, si chẳng thể si. Do tính hữu vi sinh khác, diệt khác nên Ðại Bồ tát nhất định chẳng phát sinh ý niệm: “Ta dùng tuệ này phá các phiền não”. Mà tự nói rằng: “Ta phá phiền não”. Bồ tát tuy nói lời này nhưng chẳng phải là hư dối. Vậy nên lại gọi là là chẳng thể nghĩ bàn.
Bồ tát Ca Diếp lại bạch đức Phật rằng:
– Thưa đức Thế Tôn! Con nay mới biết Ðại Bồ tát chẳng thể nghĩ bàn. Phật pháp, chúng Tăng, Kinh Ðại Niết Bàn và người thọ trì Bồ Ðề Niết Bàn chẳng thể nghĩ bàn. Thưa đức Thế Tôn! Phật pháp vô thượng sẽ trụ thế thời gian lâu mau mà diệt?
– Này thiện nam tử! Như Kinh Ðại Niết Bàn… cho đến có năm hạnh này là Thánh hạnh, Phạm hạnh, Thiên hạnh, Bệnh hạnh, Anh nhi hạnh (hạnh trẻ con) mà nếu đệ tử của ta có thể thọ trì, đọc tụng, ghi chép, diễn nói nghĩa của những điều ấy thì được sự cung kính, tôn trọng, khen ngợi, cúng dường đủ thứ của các chúng sinh. Ông phải biết là lúc bấy giờ Phật pháp chưa diệt. Này thiện nam tử! Nếu Kinh Ðại Niết Bàn lưu bố đầy đủ, đang lúc ấy mà các đệ tử của ta phạm cấm giới nhiều, tạo tác mọi điều ác, chẳng thể kính tín Kinh điển như vậy, do chẳng tin nên chẳng thể thọ trì, đọc tụng, ghi chép, giải nói nghĩa ấy, chẳng được sự cung kính… cho đến cúng dường của mọi người, thấy người thọ trì thì khinh chê, bài báng rằng: “Ông chính là bọn lục sư, chẳng phải đệ tử của Phật” thì phải biết là Phật pháp sắp diệt, chẳng còn bao lâu!
Bồ tát Ca Diếp lại bạch đức Phật rằng:
– Thưa đức Thế Tôn! Con gần gũi theo đức Phật, nghe được nghĩa như vầy: “Pháp của đức Phật Ca Diếp trụ thế bảy ngày nhiên hậu diệt tận”. Thưa đức Thế Tôn! Ðức Như Lai Ca Diếp có Kinh này chăng? Như có Kinh ấy thì sao nói rằng diệt? Còn như Kinh ấy không có thì sao nói rằng Kinh Ðại Niết Bàn là tạng Bí mật của các đức Như Lai?
Ðức Phật dạy rằng:
– Này thiện nam tử! Ta nói ở trước rằng, chỉ có Văn Thù Sư Lợi mới giải được nghĩa này. Hôm nay ta sẽ nói một lần nữa, ông hãy chí tâm lắng nghe! Này thiện nam tử! Các đức Phật Thế Tôn có hai thứ pháp, một là Thế pháp, hai là Ðệ nhất nghĩa pháp. Thế pháp có thể diệt, Ðệ nhất nghĩa pháp thì chẳng hoại diệt. Lại có hai thứ, một là Vô thường – Vô ngã – Vô lạc – Vô tịnh, hai là Thường – Lạc – Ngã – Tịnh. Vô thường, Vô lạc, Vô ngã, Vô tịnh thì có hoại diệt. Thường Lạc Ngã Tịnh thì không hoại diệt. Lại có hai thứ, một là sự trì giữ của Nhị thừa, hai là sự trì giữ của Bồ tát. Sự trì giữ của Nhị thừa thì có hoại diệt, sự trì giữ của Bồ tát thì không hoại diệt. Lại có hai thứ, một là ngoại, hai là nội. Ngoại pháp thì có hoại diệt, nội pháp thì không hoại diệt. Lại có hai thứ, một là hữu vi, hai là vô vi. Pháp hữu vi thì có hoại diệt, pháp vô vi thì không hoại diệt. Lại có hai thứ, một là có thể được, hai là chẳng thể được. Pháp có thể được thì có hoại diệt, pháp chẳng thể được thì không hoại diệt. Lại có hai thứ, một là Cộng pháp, hai là Bất cộng pháp. Cộng pháp thì hoại diệt, Bất cộng pháp thì không hoại diệt. Lại có hai thứ, một là trong người, hai là trong trời. Pháp trong người hoại diệt, pháp trong trời thì không hoại diệt (?). Lại có hai thứ, một là mười một bộ Kinh, hai là Kinh Phương Ðẳng. Mười một bộ Kinh thì có hoại diệt, Kinh điển Phương Ðẳng không có hoại diệt. Này thiện nam tử! Nếu đệ tử của ta thọ trì, đọc tụng, ghi chép, giải nói Kinh điển Phương Ðẳng, cung kính, tôn trọng, khen ngợi thì phải biết, lúc bấy giờ Phật pháp chẳng diệt. Này thiện nam tử! Câu hỏi của ông hướng về việc đức Như Lai Ca Diếp có Kinh này không? Thì này thiện nam tử! Kinh Ðại Niết Bàn đều là tạng bí mật của tất cả các đức Phật. Vì sao vậy? Vì các đức Phật tuy có mười một bộ Kinh nhưng chẳng nói Phật tính, chẳng nói Như Lai Thường-Lạc-Ngã-Tịnh, các đức Phật Thế Tôn vĩnh viễn chẳng rốt ráo vào với Niết Bàn. Vậy nên Kinh này gọi là Tạng bí mật của Như Lai, điều mà chẳng nói ở mười một bộ Kinh. Vậy nên gọi là Tạng. Như người có bảy báu, chẳng đem ra ngoài để dùng nên gọi đó là Tạng. Này thiện nam tử! Người đó sở dĩ tàng chứa vật này là vì việc chưa đến. Những gì là việc chưa đến? Ðó là lúa gạo khan hiếm, giặc đến xâm lấn đất nước, gặp phải vua ác dùng tiền chuộc mạng, nạn nguy cấp trên đường đi, của cải khó được… thì mới phải xuất ra để dùng. Này thiện nam tử! Tạng bí mật của các đức Phật Như Lai cũng lại như vậy, vì những Tỳ kheo ác ở đời vị lai nuôi chứa những vật bất tịnh, vì bốn chúng nói Như Lai rốt ráo vào với Niết Bàn, đọc tụng thế điển, chẳng kính Phật kinh… khi những việc ác như vậy hiện ở đời thì đức Như Lai vì muốn diệt những việc ác đó, khiến cho họ được xa lìa tà mạng, lợi dưỡng thì Như Lai vì họ diễn nói Kinh này. Nếu Kinh điển này, tạng bí mật của Như Lai biến mất thì phải biết là lúc bấy giờ Phật pháp diệt. Này thiện nam tử! Kinh Ðại Niết Bàn thường trụ chẳng biến dị thì sao nạn hỏi rằng, thời đức Phật Ca Diếp có Kinh này không? Này thiện nam tử! Thời đức Phật Ca Diếp, chúng sinh sở hữu, tham dục rất ít, trí tuệ nhiều thêm, các Ðại Bồ tát điều hòa, nhu nhuyến dễ giáo hóa, có đại uy đức, tổng trì chẳng quên như Ðại Tượng Vương, thế giới Phật thì thanh tịnh. Tất cả chúng sinh của thế giới đó đều biết Như Lai nhất định chẳng rốt ráo vào với Niết Bàn, thường trụ, bất biến.. nên tuy có Kinh điển này nhưng chẳng cần diễn nói. Này thiện nam tử! Ðời nay, chúng sinh nhiều những phiền não, ngu si, vui quên, không có trí tuệ, nhiều những lưới nghi hoặc, tín căn chẳng thành lập, thế giới bất tịnh, tất cả chúng sinh đều cho là Như Lai vô thường, biến thiên, rốt ráo vào với Ðại Bát Niết Bàn. Vậy nên Như Lai diễn nói Kinh điển này. Này thiện nam tử! Pháp của các đức Phật Ca Diếp thật cũng chẳng diệt. Vì sao vậy? Vì pháp thường trụ, bất biến. Này thiện nam tử! Nếu có chúng sinh mà ngã thấy vô ngã – vô ngã thấy ngã, thường thấy vô thường – vô thường thấy thường, lạc thấy vô lạc – vô lạc thấy lạc, tịnh thấy bất tịnh – bất tịnh thấy tịnh, diệt thấy bất diệt – bất diệt thấy diệt, tội thấy chẳng phải tội – chẳng phải tội thấy tội, tội nhẹ thấy nặng – tội nặng thấy nhẹ, thừa thấy chẳng phải thừa – chẳng phải thừa thấy thừa, đạo thấy chẳng phải đạo – chẳng phải đạo thấy đạo, thật là Bồ Ðề thấy chẳng phải Bồ Ðề – thật chẳng phải Bồ Ðề thấy là Bồ Ðề, khổ thấy chẳng phải khổ, tập thấy chẳng phải tập, diệt thấy chẳng phải diệt, thật thấy chẳng phải thật, thật là Thế đế thấy Ðệ nhất nghĩa đế – Ðệ nhất nghĩa đế thấy là Thế đế, qui (về) thấy chẳng phải qui – chẳng phải qui thấy qui, lấy lời Phật chân thật gọi là lời nói của ma, thật là lời nói của ma lấy làm lời nói của Phật.. Khi như vậy thì chư Phật mới nói Kinh Ðại Niết Bàn. Này thiện nam tử! Thà nói vòi muỗi hút cạn đáy biển cả chớ chẳng thể nói rằng pháp Như Lai diệt! Thà nói miệng thổi hoại tan núi Tu Di, chớ chẳng thể nói rằng pháp Như Lai diệt! Thà nói dùng sợi tơ trói buộc gió mạnh, chớ chẳng thể nói rằng pháp Như Lai diệt! Thà nói rằng trong lửa Khư đà la mọc ra hoa sen, chớ chẳng thể nói rằng pháp Như Lai diệt! Thà nói thuốc A Dà Ðà mà là độc dược chớ chẳng thể nói rằng pháp Như Lai diệt! Thà nói mặt trăng có thể làm cho nóng, mặt trời có thể làm cho lạnh, chớ chẳng thể nói rằng pháp Như Lai diệt! Thà nói bốn đại đều bỏ tính của mình, chớ chẳng thể nói rằng pháp Như Lai diệt! Này thiện nam tử! Nếu Phật mới xuất hiện, được Vô Thượng Chánh Ðẳng Chánh Giác rồi, chưa có đệ tử lý giải nghĩa thậm thâm mà đức Phật Thế Tôn đó liền nhập Niết Bàn thì phải biết là pháp đó chẳng trụ thế lâu dài. Lại nữa, này thiện nam tử! Nếu Phật mới xuất hiện, được Vô Thượng Chánh Ðẳng Chánh Giác rồi, có các đệ tử lý giải nghĩa thậm thâm thì tuy Phật Niết Bàn, nhưng phải biết là pháp đó trụ thế lâu dài. Lại nữa, này thiện nam tử! Nếu Phật mới xuất hiện, được Vô Thượng Chánh Ðẳng Chánh Giác rồi, tuy có đệ tử giải được nghĩa thậm thâm nhưng không có đàn việt bạch y dốc lòng tin kính trọng Phật pháp mà Phật liền Niết Bàn thì phải biết là pháp đó chẳng trụ thế lâu dài. Lại nữa, này thiện nam tử! Nếu Phật mới xuất hiện, được Vô Thượng Chánh Ðẳng Chánh Giác rồi, có các đệ tử giải được nghĩa thậm thâm, có nhiều đàn việt bạch y dốc lòng tin, kính trọng Phật pháp thì tuy Phật Niết Bàn, nhưng phải biết là Phật pháp trụ ở đời lâu dài. Lại nữa, này thiện nam tử! Nếu Phật mới xuất hiện, được Vô Thượng Chánh Ðẳng Chánh Giác rồi, có các đệ tử giải được nghĩa thậm thâm, tuy có đàn việt bạch y dốc lòng tin, kính trọng Phật pháp nhưng mà các đệ tử diễn nói kinh pháp vì tham lợi dưỡng, chẳng vì Niết Bàn, Phật lại diệt độ thì phải biết là pháp đó chẳng trụ thế lâu dài. Lại nữa, này thiện nam tử! Nếu Phật mới xuất hiện, được Vô Thượng Chánh Ðẳng Chánh Giác rồi, có các đệ tử giải được nghĩa thậm thâm, lại có đàn việt bạch y dốc lòng tin, kính trọng Phật pháp, các đệ tử của đức Phật đó, phàm diễn nói kinh pháp, chẳng tham lợi dưỡng vì cầu Niết Bàn thì tuy đức Phật diệt độ nhưng phải biết là pháp đó trụ ở đời lâu dài. Lại nữa, này thiện nam tử! Nếu Phật mới xuất hiện, được Vô Thượng Chánh Ðẳng Chánh Giác rồi, tuy có đệ tử giải được nghĩa thậm thâm, lại có đàn việt bạch y dốc lòng tin, kính trọng Phật pháp mà các đệ tử dấy lên nhiều tranh cãi phải trái lẫn nhau, Phật lại Niết Bàn thì phải biết là pháp đó chẳng trụ thế lâu dài. Lại nữa, này thiện nam tử! Nếu Phật mới xuất hiện, được Vô Thượng Chánh Ðẳng Chánh Giác rồi, có các đệ tử giải được nghĩa thậm thâm, lại có đàn việt bạch y dốc lòng tin, kính trọng Phật pháp, các đệ tử của đức Phật đó tu hòa hợp kính Pháp, chẳng tranh phải, trái tôn trọng lẫn nhau thì Phật tuy Niết Bàn nhưng phải biết pháp đó trụ lâu chẳng diệt. Lại nữa, này thiện nam tử! Nếu Phật mới xuất hiện, được Vô Thượng Chánh Ðẳng Chánh Giác rồi, tuy có đệ tử giải được nghĩa thậm thâm, lại có đàn việt bạch y dốc lòng tin, kính trọng Phật pháp, các đệ tử của đức Phật ấy vì Ðại Niết Bàn mà diễn nói pháp, cung kính lẫn nhau, chẳng khởi lên tranh cãi, nhưng nuôi chứa tất cả vật bất tịnh, lại tự khen rằng, ta được quả Tu đà hoàn… cho đến quả A la hán, đức Phật lại Niết Bàn thì phải biết là pháp đó trụ thế chẳng lâu. Lại nữa, này thiện nam tử! Nếu Phật mới xuất hiện được Vô Thượng Chánh Ðẳng Chánh Giác rồi, có các đệ tử giải được nghĩa thậm thâm, lại có đàn việt bạch y dốc lòng tin, kính trọng Phật pháp, các đệ tử của đức Phật đó vì Ðại Niết Bàn diễn nói Kinh pháp, khéo tu hòa kính, tôn trọng lẫn nhau, chẳng nuôi chứa tất cả vật bất tịnh, cũng chẳng nói rằng được Tu đà hoàn… cho đến A la hán, đức Phật Thế Tôn đó tuy lại diệt độ, nhưng phải biết là pháp đó trụ ở đời lâu dài. Lại nữa, này thiện nam tử! Nếu Phật mới xuất hiện, được Vô Thượng Chánh Ðẳng Chánh Giác rồi, có các đệ tử… cho đến chẳng nuôi chứa vật bất tịnh, lại chẳng tự nói rằng được Tu đà hoàn… cho đến A la hán, nhưng đều chấp sở kiến, đủ thứ dị thuyết mà nói lên rằng: “Thưa trưởng lão! Việc chế ra bốn trọng pháp… cho đến bảy pháp diệt tránh (diệt tranh cãi), vì chúng sinh nên hoặc ngăn (già) hoặc mở (khai), mười hai bộ Kinh cũng lại như vậy. Vì sao vậy? Vì Phật biết đất nước, thời tiết đều khác, chúng sinh chẳng đồng, độn căn, lợi căn sai biệt. Vậy nên đức Như Lai hoặc ngăn, hoặc mở, có khinh, có trọng mà nói. Này thiện nam tử! Ví như vị lương y vì bệnh cho uống sữa, vì bệnh ngăn uống sữa, bệnh nóng thì cho uống, bệnh lạnh thì ngăn. Ðức Như Lai cũng vậy, quan sát bệnh căn phiền não của chúng sinh nên cũng mở, cũng ngăn. Thưa trưởng lão! Tôi thân cận theo đức Phật nghe được nghĩa như vậy. Chỉ có tôi biết nghĩa, còn ông thì chẳng thể biết. Chỉ có tôi giải được Luật, còn ông thì chẳng thể giải. Tôi biết các Kinh, còn ông thì chẳng thể biết”. Ðức Phật đó lại diệt độ thì phải biết pháp đó chẳng trụ thế lâu dài. Lại nữa, này thiện nam tử! Nếu Phật mới xuất hiện, được Vô Thượng Chánh Ðẳng Chánh Giác rồi, có các đệ tử… cho đến chẳng nói rằng, ta được quả Tu đà hoàn đến quả A la hán, cũng chẳng nói rằng: “Các đức Phật Thế Tôn vì chúng sinh nên hoặc ngăn, hoặc mở, thưa trưởng lão! Tôi thân cận theo đức Phật nghe nghĩa như vậy, Pháp như vậy, Luật như vậy! Thưa trưởng lão! Phải nương vào mười hai bộ Kinh của Như Lai. Nghĩa này như vậy thì tôi thọ trì, như chẳng phải nghĩa ấy thì tôi sẽ xả bỏ…” Tuy đức Phật Thế Tôn đó lại Niết Bàn, nhưng phải biết là pháp đó trụ ở đời lâu dài. Này thiện nam tử! Khi pháp của ta diệt, có hàng đệ Thanh Văn, hoặc nói có Thần, hoặc nói Thần rỗng không, hoặc nói có ấm bên trong, hoặc nói không ấm bên trong, hoặc nói có ba đời, hoặc nói không ba đời, hoặc nói có ba thừa, hoặc nói không ba thừa, hoặc nói tất cả hữu, hoặc nói tất cả không, hoặc nói chúng sinh có thỉ có chung, hoặc nói chúng sinh vô thỉ vô chung, hoặc nói mươi hai nhân duyên là pháp hữu vi, hoặc nói mười hai nhân duyên là pháp vô vi, hoặc nói Như Lai có bệnh khổ hạnh, hoặc nói Như Lai không bệnh khổ hạnh, hoặc nói Như Lai chẳng cho Tỳ kheo ăn mười thứ thịt. Những gì là mười? Ðó là thịt người, rắn, voi, ngựa, lừa, chó, sư tử, heo, chồn, khỉ đột. Những thứ còn lại ấy đều cho ăn. Hoặc nói tất cả chẳng cho ăn. Hoặc nói Tỳ kheo chẳng làm năm việc. Những gì là năm? Là chẳng bán miệng sống, dao, rượu, cát sông, dầu mè; số còn lại ấy đều cho làm. Hoặc nói chẳng cho vào năm thứ nhà. Những gì là năm? Ðó là nhà đứa giết mổ, nhà dâm nữ, nhà bán rượu, cung vua, nhà Chiên đa la. Số nhà còn lại đều cho vào. Hoặc nói chẳng cho mặc áo Kiều xa gia, số còn lại tất cả đều cho. Hoặc nói Như Lai cho các Tỳ kheo nhận lấy áo quần, đồ ăn, ngọa cụ mà giá trị những đồ ấy đến hàng mười vạn lượng vàng, hoặc nói chẳng cho. Hoặc nói Niết Bàn Thường-Lạc-Ngã-Tịnh. Hoặc nói Niết Bàn chính là kết sử hết, lại không có thứ biệt pháp gọi là Niết Bàn. Ví như dệt sợi tơ gọi đó là áo mà áo đã hoại rồi thì gọi là không có áo. Thật ra không có biệt pháp gọi là không có áo. Thể của Niết Bàn cũng lại như vậy. Này thiện nam tử! Ðang lúc ấy, đệ tử của ta, người nói chân chính thì ít, kẻ nói tà bậy thì nhiều, người thọ chính pháp thì ít, kẻ thọ tà pháp thì nhiều, người thọ lời Phật thì ít, kẻ thọ lời ma thì nhiều! Này thiện nam tử! Lúc bấy giờ, nước Câu Diệm Di có hai đệ tử, một là A la hán, hai là phá giới. Ðồ chúng của người phá giới có đến năm trăm người, đồ chúng của vị A la hán có chừng một trăm người. Người phá giới nói rằng: “Ðức Như Lai rốt ráo vào với Niết Bàn, ta gần gũi theo đức Phật nghe được nghĩa như vậy. Như Lai đã chế ra bốn trọng pháp mà nếu giữ gìn thì cũng có thể phạm, cũng không có tội. Ta nay cũng được quả A la hán, bốn vô ngại trí mà A la hán cũng phạm bốn trọng pháp như vậy. Bốn trọng pháp nếu là tội chân thật thì A la hán nhất định chẳng nên phạm. Ðức Như Lai tại thế chế rằng, kiên trì đến khi Niết Bàn thì đều buông bỏ hết”. Vị Tỳ kheo A la hán nói rằng: “Thưa trưởng lão! Ngài chẳng nên nói Như Lai rốt ráo vào với Niết Bàn! Tôi biết Như Lai thường trụ chẳng biến dị. Ðức Như Lai tại thế và sau khi Niết Bàn, phạm bốn trọng cấm, tội không sai biệt. Nếu nói A la hán phạm bốn trọng cấm thì nghĩa đó chẳng vậy. Vì sao vậy? Vì người Tu đà hoàn còn chẳng phạm cấm giới, huống gì là A la hán? Nếu trưởng lão nói rằng, ta là A la hán, thì A la hán nhất định chẳng sinh ra tư tưởng ta được A la hán. A la hán thì chỉ nói pháp thiện, chẳng nói pháp bất thiện. Lời nói của trưởng lão đều thuần là phi pháp. Nếu người có được thấy mười hai bộ Kinh thì nhất định biết trưởng lão chẳng phải là A la hán”. Này thiện nam tử! Lúc bấy giờ, đồ chúng của Tỳ kheo phá giới liền cùng nhau giết chết vị A la hán. Này thiện nam tử! Khi đó ma vương nhân lòng phẩn hận của hai chúng đó nên đều hại hết sáu trăm vị Tỳ kheo này. Bấy giờ, người phàm phu đều cùng nói rằng: “Thương thay! Phật pháp đến đây đã diệt tận!” Mà chính pháp của ta thật chẳng diệt vậy. Lúc bấy giờ, nước ấy có mười hai vạn những vị Ðại Bồ tát giỏi hộ trì pháp của ta thì sao phải nói pháp của ta diệt vậy? Ðang khi ấy, bên trong cõi Diêm phù đề không có một vị Tỳ kheo làm đệ tử của ta. Lúc bấy giờ, ma Ba Tuần dùng lửa lớn đốt cháy tất cả Kinh điển sẵn có ở đó. Trong số Kinh điển ấy, nếu có còn sót lại thì các Bà la môn liền trộm lấy, khắp nơi nơi nhặt nhạnh đem an trí vào Kinh điển của mình. Do nghĩa này nên khi Phật chưa xuất hiện thì các tiểu Bồ tát cùng theo tín thọ lời nói của Bà la môn. Các thầy Bà la môn tuy nói lời rằng: “Ta có trai giới mà các ngoại đạo chân thật là không vậy” nhưng các ngoại đạo.v.v…tuy lại nói rằng, có Ngã, Lạc, Tịnh nhưng mà thật chẳng thể giải được nghĩa Ngã, Lạc, Tịnh. Những dùng một chữ, hai chữ, một câu, hai câu của Phật pháp mà nói rằng, Kinh điển của ta có nghĩa như vậy.
Lúc bấy giờ, vùng Ta La Song Thọ ở thành Câu Thi Na, vô lượng vô biên Atăngkỳ chúng nghe lời nói này rồi đều chung nhau xướng lên rằng:
– Thế gian rỗng không! Thế gian rỗng không!
Bồ tát Ca Diếp bảo các đại chúng rằng:
– Các ông hãy chớ ưu sầu gào khóc! Thế gian chẳng rỗng không! Như Lai thường trụ, không có biến dị! Pháp, Tăng cũng vậy!
Lúc bấy giờ, đại chúng nghe lời này rồi, gào khóc liền dừng lại, đều phát tâm Vô Thượng Chánh Ðẳng Chánh Giác.
KINH ÐẠI BÁT NIẾT BÀN
– Quyển thứ mười sáu hết –