Quyển thứ tám
12. PHẨM NHƯ LAI TÍNH
Ngài Ca Diếp bạch đức Phật rằng:
– Thưa đức Thế Tôn! Hai mươi lăm cõi Hữu có Ngã không vậy?
Ðức Phật dạy rằng:
– Này thiện nam tử! Ngã tức là nghĩa của Như Lai tạng. Tất cả chúng sinh đều có Phật tính, tức là nghĩa của Ngã. Như vậy nghĩa của Ngã từ xưa đến nay thường bị sự che phủ của vô lượng phiền não. Vậy nên chúng sinh chẳng thể được thấy. Này thiện nam tử! Như bên trong nhà của người con gái nghèo có nhiều kho tàng vàng ròng mà người nhà lớn nhỏ không có ai biết. Có một người lạ giỏi biết phương tiện nói với người con gái nghèo rằng: “Ta nay có thể tìm cho ngươi! Nhưng ngươi có thể vì ta làm cỏ, trừ sạch cỏ bẩn”. Người con gái liền đáp rằng: “Tôi nay chẳng thể làm! Nếu ông có thể bày ra cho con tôi chỗ giấu vàng, nhiên hậu tôi sẽ mau chóng vì ông mà làm!” Người đó lại nói rằng: “Ta biết phương tiện có thể bày ra cho con ngươi!” Người con gái đáp rằng: “Nhà tôi lớn nhỏ còn tự chẳng biết, huống chi ông sao có thể biết?” Người đó lại nói rằng: “Ta nay xét thấy có thể biết!” Người con gái đáp rằng: “Tôi cũng muốn thấy! Ông hãy mau mắn có thể bày ra cho tôi!” Người đó liền ở trong ngôi nhà ấy đào ra kho vàng. Người con gái thấy rồi, lòng sinh ra hoan hỷ, khởi lên tư tưởng lạ lùng, theo ngưỡng mộ người đó. Này thiện nam tử! Phật tính của chúng sinh cũng lại như vậy, tất cả chúng sinh chẳng thể được thấy như kho báu kia, người nghèo chẳng biết được. Này thiện nam tử! Ta nay khắp bày ra cho tất cả chúng sinh, sở hữu Phật tính của họ bị sự che phủ của các phiền não như người nghèo kia có kho vàng ròng mà chẳng thể thấy. Hôm nay Như Lai khắp bày ra những kho báu giác của chúng sinh như là Phật tính. Tất cả chúng sinh thấy sự kiện này rồi, lòng sinh ra hoan hỷ mà quy ngưỡng Như Lai. Người giỏi phương tiện tức là Như Lai, người con gái nghèo tức là tất cả vô lượng chúng sinh. Kho vàng ròng tức là Phật tính vậy.
Lại nữa, này thiện nam tử! Ví như người con gái sinh ra, nuôi dưỡng đứa con một. Ðứa trẻ bị bệnh, người con gái này sầu não, tìm kiếm lương y. Vị lương y đã đến, hòa hợp ba thứ thuốc là váng sữa, sữa, đường cho đứa trẻ uống. Rồi nhân đó bảo người con gái rằng: “Ðứa trẻ uống thuốc rồi thì chớ cho bú! Cần phải để cho thuốc tiêu rồi thì mới cho nó bú”. Người con gái đó liền dùng vị đắng bôi lên vú của mình và nói với con rằng: “Vú của mẹ bôi độc rồi chẳng thể chạm vào được nữa!” Ðứa trẻ khát sữa muốn được bú sữa mẹ, nghe hơi độc của sữa liền tránh xa đi. Ðến lúc thuốc ấy tiêu rồi, người mẹ mới rửa sạch vú, gọi con cho nó bú. Lúc đó đứa trẻ tuy lại đói khát mà lúc trước đã nghe hơi độc nên chẳng đến. Người mẹ lại nói rằng: “Vì con uống thuốc nên mẹ dùng độc bôi, thuốc của con đã tiêu, mẹ đã rửa sạch rồi. Con có thể đến uống sữa, không còn đắng nữa”. Ðứa trẻ ấy nghe rồi, dần dần trở lại uống sữa. Này thiện nam tử! Như Lai cũng vậy, vì độ tất cả nên dạy các chúng sinh tu pháp Vô ngã. Tu như vậy rồi thì đoạn dứt vĩnh viễn ngã tâm, vào đến Niết Bàn. Vì trừ những kiến thức hư vọng của thế gian nên ta thị hiện pháp ra khỏi thế gian. Ta lại bày ra cho thế gian, kể là ngã hư vọng, chẳng phải chân thật, tu Vô ngã thì thân thanh tịnh. Ví như người con gái vì con mình nên dùng vị đắng bôi lên vú, Như Lai cũng vậy, vì tu “Không” nên nói rằng, các pháp đều không có Ngã. Như người con gái kia rửa sạch vú rồi mà gọi con là muốn cho nó trở lại uống sữa, ta nay cũng vậy, nên nói Như Lai tạng. Vậy nên Tỳ kheo chẳng nên sinh ra sợ. Như đứa trẻ kia nghe mẹ gọi đã dần dần trở lại uống sữa, Tỳ kheo cũng vậy, nên tự phân biệt Như Lai bí tạng, chẳng được chẳng có.
Bồ tát Ca Diếp bạch đức Phật rằng:
– Thưa đức Thế Tôn! Thật không có ngã. Vì sao vậy? Vì khi đứa trẻ sinh ra thì không hiểu biết gì. Nếu có Ngã thì ngày vừa sinh ra liền có sự hiểu biết. Do nghĩa đó nên nhất định biết không có Ngã. Nếu nhất định có Ngã thì sau khi thọ sinh rồi cần phải không hết mất. Giả sử tất cả đều có Phật tính, là thường trụ thì cần phải không có hoại tướng. Nếu không có hoại tướng thì sao mà có Sát lợi, Bà la môn, Tỳ xá, Thủ đà và Chiên đà la, súc sinh sai khác. Nay thấy nghiệp duyên đủ thứ chẳng đồng, các đường đều khác. Nếu nhất định có ngã thì tất cả chúng sinh cần phải không có hơn thua. Do ý nghĩa đó nên nhất định biết Phật tính chẳng phải là pháp thường. Nếu nói rằng Phật tính nhật định là thường thì vì duyên gì lại nói có sát, đạo, dâm, lưỡng thiệc (nói hai lưỡi) ác khẩu, nói dối, nói thêu dệt, tham, sân, tà kiến. Nếu tính của ngã là thường thì vì sao sau khi uống rượu lại say sưa mê loạn. Nếu tính của Ngã là thường thì mù nên thấy sắc, điếc nên nghe tiếng, câm nên có thể nói, chân có rút có thể đi. Nếu tính của Ngã là thường thì chẳng nên trách hầm lửa, nước lớn, thuốc độc, dao gươm, người ác, cầm thú. Nếu ngã thường trụ thì việc đã làm xưa chẳng nên quên mất. Nếu chẳng quên mất thì vì duyên gì lại nói rằng, ta từng thấy người này ở đâu vậy? Nếu Ngã thường trụ thì chẳng nên có già trẻ, thịnh suy, nhớ nghĩ việc đã qua. Nếu Ngã thường trụ thì dừng trụ chỗ nào? Là ở tại trong bãi nước dãi, trong các màu sắc xanh vàng đỏ trắng vậy sao? Nếu Ngã thường trụ thì nên khắp trong thân như vùng dầu vừng (mè) không có chỗ trống không nên nếu khi đoạn thân thì Ngã cũng nên đoạn luôn.
Ðức Phật bảo ngài Ca Diếp rằng:
– Này thiện nam tử! Ví như vị vương gia có người đại lực sĩ. Vùng mày của người ấy có viên ngọc Kim cương. Ông cùng với lực sĩ khác đấu sức đánh nhau mà người lực sĩ kia dùng đầu húc vào chỗ viên ngọc đó. Viên ngọc trên trán vị lực sĩ ấy liền chìm mất vào trong da. Ông chẳng tự biết chỗ sở tại của viên ngọc đó. Thấy chỗ viên ngọc ấy có vết thương, ông liền ra lệnh cho lương y, muốn trị liệu cho mình. Có vị thầy thuốc sáng suốt giỏi biết phương thuốc, liền biết được nguyên nhân vết thương này là viên ngọc vào trong thân thể. Viên ngọc đó vào trong da liền dừng trụ lại. Lúc đó vị lương y liền hỏi vị lực sĩ rằng: “Viên ngọc trên trán của ngài ở đâu rồi?” Vị lực sĩ thất kinh đáp rằng:“Viên ngọc trên trán tôi đã mất rồi sao? Viên ngọc đó nay đâu rồi? Sẽ chẳng phải là huyễn hóa?” Rồi ông lo buồn gào khóc. Lúc đó, vị lương y an ủi dỗ dành người lực sĩ rằng: “Ông nay chẳng nên sinh ra sầu khổ lớn! Ông nhân khi đánh nhau, viên ngọc báu vào trong thân thể. Nay tại chỗ da bọc, ảnh nó hiện ra bên ngoài. Khi các ông đánh nhau, sân nhuệ độc hại hưng thịnh, viên ngọc bị hãm (vùi lấp) vào thân thể nên chẳng tự biết”. Lúc đó người lực sĩ chẳng tin vị thầy thuốc mà nói rằng: “Nếu tại chỗ da bọc, mũ máu bất tịnh thì vì duyên cớ gì nó chẳng ra? Nếu tại chỗ gân bọc thì chẳng thể thấy được! Ông nay tại sao lại lừa dối ta?” Vị thầy thuốc cầm kính (gương) để soi vào mặt người lực sĩ ấy thì viên ngọc ở trong kính hiển hiện sáng rõ. Người lực sĩ thấy rồi lòng mang kinh lạ phát sinh tư tưởng đặc biệt lạ lùng. Này thiện nam tử! Tất cả chúng sinh cũng lại như vậy, chẳng thể gần gũi thiện tri thức nên tuy có Phật tính nhưng đều chẳng thể thấy mà bị sự che phủ của tham dâm, sân nhuế, ngu si nên rơi vào địa ngục, súc sinh, ngã quỉ, a tu la, chiên đà la, sát lợi, bà la môn, tỳ xá, thủ đà… Họ sinh ra trong đủ thứ gia đình như vậy là nhân sự khởi dậy đủ thứ nghiệp duyên của tâm. Họ tuy thọ thân người nhưng bị mù điếc, mù, ngọng, câm, câu rút, gù, què… phải chịu quả báo ở trong hai mươi lăm cõi Hữu. Họ bị tham dâm, sân nhuế, ngu si che phủ tâm hồn nên chẳng biết Phật tính như người lực sĩ kia, viên ngọc báu vẫn còn trong thân thể mà kêu là đã mất đi. Chúng sinh cũng vậy, chẳng biết gần gũi thiện tri thức nên chẳng biết vi mật bảo tạng của Như Lai, tu học Vô ngã, ví như hạng chẳng phải Thánh, tuy nói có Ngã mà cũng lại chẳng biết chân tính của Ngã. Các đệ tử của ta cũng lại như vậy, chẳng biết gần gũi bậc thiện tri thức nên tu học Vô ngã cũng lại chẳng biết chỗ của Vô ngã, còn tự chẳng biết chân tính của Vô ngã, huống là lại có thể biết chân tính của hữu ngã. Này thiện nam tử! Như Lai nói các chúng sinh đều có Phật tính như vậy là ví như vị lương y bày ra cho người lực sĩ kia viên ngọc báu kim cương. Những chúng sinh này bị sự che phủ của vô lượng ức những phiền não nên chẳng nhận biệt được Phật tính. Nếu tận diệt phiền não thì bấy giờ họ mới được chứng biết sáng rõ như người lực sĩ kia thấy ngọc báu của mình ở trong gương sáng. Này thiện nam tử! Như Lai bí tạng như vậy thật là không lường, chẳng thể nghĩ bàn!
Lại nữa, này thiện nam tử! Ví như núi Tuyết có một vị thuốc là Lạc vị rất ngọt, ở tận dưới rừng sâu, người không thể thấy. Có người nghe mùi thơm liền biết chỗ đất ấy phải có thứ thuốc này. Trong đời quá khứ, có vị vua Chuyển Luân, ở núi Tuyết kia, vì thứ thuốc này, ở tại khắp nơi nơi đã tạo tác những ống tre để tiếp nhận thứ thuốc đó. Thuốc đó khi nóng thì từ đất chảy ra tập trung vào trong ống tre. Vị của thuốc ấy chân chính. Vi vua đã mất rồi thì sau đó vị thuốc này hoặc chua, hoặc mặn, hoặc ngọt, hoặc đắng, hoặc cay, hoặc nhạt… Như vậy mỗi vị tùy theo chỗ chảy ra của vị thuốc ấy mà có đủ thứ vị lạ. Vị chân chính của thuốc đó đình lại ở tại núi giống như vầng trăng tròn đầy. Phàm người bạc phước tuy đào thoát gia công khổ chí mà chẳng thể được. Lại có bậc Thánh vương xuất hiện ở đời, do phước đức nhân duyên thì liền được vị chân chính của thuốc đó. Này thiện nam tử! Bí mật tạng của Như Lai, vị ấy cũng vậy, bị sự che phủ của rừng rậm những phiền não, chúng sinh vô minh chẳng thể được thấy. Thuốc một vị là ví như Phật tính, do phiền não nên phát ra đủ thứ vị như là địa ngục, ngã quỉ, súc sinh, trời, người, trai, gái, chẳng phải trai, chẳng phải gái, sát lợi, bà la môn, tỳ xá, thủ đà. Phật tính hùng mạnh khó có thể hủy hoại. Vậy nên không ai có thể sát hại, nếu có người giết hại thì tức là đoạn Phật tính. Như vậy Phật tính nhất định chẳng thể đoạn được. Tính nếu có thể đoạn thì không có điều đó. Như tính của Ngã tức là bí mật tạng của Như Lai. Như vậy bí mật tạng thì tất cả không thể hủy hoại thiêu diệt. Tuy nó chẳng thể hoại nhưng chẳng thể thấy. Nếu được thành tựu Vô Thượng Chánh Ðẳng Chánh Giác thì mới chứng biết được. Do nhân duyên này nên không có ai có thể giết hại.
Bồ tát Ca Diếp lại bạch đức Phật rằng:
– Thưa đức Thế Tôn! Nếu không ai giết hại thì cần phải không có nghiệp bất thiện!
Ðức Phật bảo ngài Ca Diếp rằng:
– Quả thật có sát sinh! Vì sao vậy? Này thiện nam tử! Phật tính của chúng sinh ở trong năm ấm. Nếu hủy hoại năm ấm thì gọi là sát sinh. Nếu có sát sinh tức là đọa vào đường ác. Do nhân duyên nghiệp mà có sát lợi, bà la môn, tỳ xá, thủ đà và chiên đà la, nam, hoặc nữ, chẳng phải nam, chẳng phải nữ… Những hình tướng sai khác của hai mươi lăm cõi hữu sinh tử lưu chuyển. Người chẳng phải là thánh ngang ngược cho rằng, đối với các tướng lớn nhỏ của Ngã giống như hạt kê, hoặc như hạt gạo, hạt đậu thậm chí như ngón tay cái. Họ vọng sinh đủ thứ tưởng nhớ như vậy thì tướng vọng tưởng không có chân thật. Tướng Ngã xuất thế gọi là Phật tính. Cho là Ngã như vậy thì gọi là Tối thiện.
Lại nữa, này thiện nam tử! Ví như có người giỏi biết phục tạng (kho tàng được che giấu) liền lấy cái xẻng bén đào đất thẳng xuống, đá bàn, cát sỏi thẳng qua không khó, chỉ đến Kim cương thì chẳng thể xuyên suốt. Phàm Kim cương thì dù có đao, búa cũng chẳng thể phá hoại được. Này thiện nam tử! Phật tính của chúng sinh cũng lại như vậy, cho dù là tất cả, ma trời Ba Tuần và những người, trời… đã chẳng thể phá hoại. Tướng năm ấm tức là khởi tác. Tướng khởi tác giống như đá, cát có thể xuyên qua, có thể phá hoại. Phật tính chân ngã thì ví như Kim cương, chẳng thể hủy hoại được. Do ý nghĩa này nên hoại năm ấm thì gọi là sát sinh. Này thiện nam tử! Ông nhất định phải biết Phật pháp chẳng thể nghĩ bàn như vậy.
Này thiện nam tử! Kinh Phương Ðẳng giống như cam lộ, cũng giống như độc dược.
Bồ tát Ca Diếp bạch đức Phật rằng:
– Ðức Như Lai vì duyên gì mà nói Kinh Phương Ðẳng ví như cam lộ, cũng ví như độc dược?
Ðức Phật dạy rằng:
– Này thiện nam tử! Ông nay có muốn biết ý nghĩa chân thật của Như Lai bí mật tạng không?
Ngài Ca Diếp bạch rằng:
– Con nay thật muốn biết được ý nghĩa của Như Lai bí tạng!
Lúc bấy giờ, đức Như Lai nói kệ rằng:
Hoặc có uống cam lộ
Mà sớm mạng thương vong.
Hoặc lại uống cam lộ
Thọ mạng được miên trường.
Có uống độc mà sống
Uống độc chết có duyên(cớ).
Trí vô ngại cam lộ
Gọi là Ðại Thừa Kinh.
Như vậy Ðại Thừa điển
Cũng gọi độc dược phương (phương thuốc)
Như đề hồ, váng sữa
Và cả những loại đường (ngọt)
Uống tiêu thì là thuốc
Chẳng tiêu thành độc liền.
Phương Ðẳng cũng như vậy
Cam lộ của người thông (trí)
Ngu chẳng biết Phật tính
Uống vào thì độc thành.
Thanh Văn và Duyên Giác
Ðại Thừa là ngọt lành(là cam lộ)
Giống như trong các vị
Vị sữa là trên cùng;
Như vậy người cầu tiến
Với Ðại Thừa tựa nương
Thì Niết Bàn được đến
Trong (loài) người thành tượng vương (vua voi)
Chúng sinh biết Phật tính
Như Ca Diếp vân..vân…
Vị cam lộ vô thượng
Chẳng tử cũng chẳng sinh.
Ca Diếp! Ông nay phải
Tam qui khéo léo phân (biệt)
Như vậy Tam qui tính
Tức là tính Ngã đồng.
Nếu hay quan sát kỹ
Ngã tính, Phật tính chung
Thì phải biết người đó
Ðược vào bí mật tàng (tạng).
Biết Ngã và Ngã sở
Là người xuất thế gian.
Tính Tam Bảo Phật Pháp
Vô thượng đệ nhất tôn
Như lời kệ ta nói
Tính ấy, nghĩa như trên.
Lúc bấy giờ, ngài Ca Diếp lại nói kệ rằng:
Con nay đều chẳng biết
Chỗ Tam bảo để nương
Thì sao sẽ qui thú
Vô sở úy không trên (vô thượng)?
Chẳng biết chỗ Tam Bảo
Thì sao Vô ngã thành?
Sao gọi qui y Phật?
Mà được an ủi lòng?
Sao gọi qui y Pháp?
Xin ngài nói cho con!
Sao gọi được tự tại?
Tự tại sao lại không?
Sao gọi qui y tăng?
Chuyển được vô thượng lợi?
Sao gọi nói thật chân
Vị lai thành Phật đạo?
Vị lai nếu chẳng thành
Sao gọi qui Tam Bảo?
Con nay không biết thông
Phải nương hành thứ lớp.
Sao gọi thai chưa mang
Mà dấy sinh tử tưởng?
Nếu thai ắt ở trong
Thì gọi là hữu tử (có con).
Nếu trong thai có con
Sẽ sinh chẳng lâu nữa.
Ðó gọi là nghĩa con (ý nghĩa việc sinh con)
Nghiệp chúng sinh cũng vậy
Như lời nói Thế Tôn
Người ngu chẳng thể biết.
Do sự chẳng biết thông
Luân hồi ngục sinh tử.
Ưu bà tắc giả danh C
hẳng biết nghĩa chân thật.
Nguyện Phật rộng phân biệt
Trừ lưới nghi cho con!
Như Lai đại trí tuệ
Rũ lòng thương giải phân!
Nguyện nói bí mật tạng
Của Như Lai Thế Tôn!
– Ca Diếp! Ông phải biết
Ta nay sẽ vì ông
Khéo mở vi mật tạng
Khiến đoạn nghi của ông.
Nay nghe phải hết lòng
Ông với các Bồ tát
Phật thứ bảy cùng chung
Ðồng một danh hiệu ấy.
Người theo Phật về nương
Chân thật Ưu bà tắc
Nhất định chẳng về nương (qui y)
Những thiên thần nào khác.
Người nghe pháp về nương (qui y pháp)
Thì lìa khỏi sát hại
Người qui y Thánh Tăng
Chẳng cầu đến ngoại đạo.
Qui Tam Bảo như trên
Thì được vô sở úy.
Ca Diếp bạch Phật rằng:
– Con cũng qui Tam bảo
Ðó là đường chánh chân
Là cảnh giới chư Phật
Tướng Tam Bảo ngang bằng(bình đẳng)
Thường có tính Ðại trí
Tính ngã, tính Thế Tôn (Phật tính)
Không hai, không sai khác
Ðạo này được Phật khen
Chỗ dừng yên chánh tiến.
Cũng gọi thấy chánh chân
Nên được Phật khen ngợi.
Ngã cùng đường đi lành
Ðược khen đạo Vô thượng
Là cam lộ trên cùng
Các hữu đã không có.
Lúc bấy giờ, đức Phật bảo Bồ tát Ca Diếp rằng:
– Này thiện nam tử! Ông nay chẳng nên như những Thanh Văn, người phàm phu mà phân biệt Tam bảo. Ðối với Ðại Thừa này không có tướng phân biệt Tam qui. Sở dĩ vì sao? Vì ở trong Phật tính tức là có Pháp, Tăng. Vì muốn hóa độ Thanh Văn, phàm phu nên ta phân biệt nói Tam Bảo khác tướng. Này thiện nam tử! Nếu muốn thuận theo pháp thế gian thì nên phân biệt có ba qui y. Này thiện nam tử! Bồ tát nên tác khởi tư duy như vầy: “Thân này của ta hôm nay nương về với Phật. Nếu tức thời thân này được thành Phật đạo mà đã thành Phật rồi thì chẳng phải cung kính lễ bái cúng dường đối với các đức Thế Tôn. Vì sao vậy? Vì chư Phật bình đẳng, bình đẳng vì chúng sinh tạo tác qui y. Nếu muốn tôn trọng pháp thân xá lợi thì nên lễ kính tháp miếu của chư Phật. Sở dĩ vì sao? Vì muốn hóa độ chúng sinh nên cũng khiến cho chúng sinh ở trong thân ta dấy lên tư tưởng tháp miếu mà lễ bái cúng dường. Như vậy chúng sinh đã dùng pháp thân của ta làm chỗ qui y. Tất cả chúng sinh đều nương vào pháp tà ngụy chẳng phải chân. Ta sẽ lần lượt vì họ nói pháp chân chính. Lại có người qui y chẳng phải chân tăng thì ta sẽ vì họ làm chỗ qui y chân tăng. Nếu có người phân biệt ba qui y thì ta sẽ vì họ làm chỗ một qui y, không có ba thứ sai biệt. Ðối với mọi người sống mù thì ta vì họ làm tròng mắt. Ta lại phải vì các Thanh Văn, Duyên Giác làm chỗ qui y chân chính”. Này thiện nam tử! Như vậy là Bồ tát vì vô lượng chúng sinh ác và những trí giả mà làm Phật sự.
Này thiện nam tử! Ví như có người khi lâm trận chiến liền sinh ra tâm niệm rằng: “Ta ở trong đó là tối đệ nhất. Tất cả binh chúng đều nương cậy vào ta! Cũng như thái tử suy nghĩ như vầy: “Ta phải điều phục những người con còn lại của vua để nối dõi nghiệp đế vương của đại vương mà được tự tại, khiến cho những người con vua đều diện kiến qui y. Vậy nên chẳng nên sinh ra lòng hạ liệt”. Như vua, con vua, đại thần cũng vậy. Này thiện nam tử! Ðại Bồ tát cũng lại như vậy, tác khởi sự suy nghĩ này: “Sao gọi là ba việc cùng ta một thể?” Này thiện nam tử! Ta hiển thị ba việc tức là Niết Bàn. Như Lai thì gọi là Vô Thượng Sĩ, ví như trong thân người thì cái đầu là trên hết, chứ chẳng phải các chi tiết khác như chân, tay.v.v… Phật cũng như vậy, là đấng Tối Thượng Tôn, chứ chẳng phải là Pháp, Tăng vậy. Vì muốn hóa độ các thế gian nên Phật thị hiện đủ thứ tướng sai biệt như những bậc thang kia. Vậy nên ông nay chẳng nên thọ trì như sự hiểu biết tướng sai biệt về Tam qui của người phàm ngu! Ông đối với Ðại Thừa dũng mãnh, sắc bén, nhất quyết đoạn tuyệt thì nên như lưỡi cương đao (dao cứng)!
Bồ tát Ca Diếp bạch đức Phật rằng:
– Thưa đức Thế Tôn! Con biết mà cố hỏi, chớ chẳng phải vì chẳng biết. Con là Bồ tát đại dũng mãnh mà hỏi đến những hành xử vô cấu thanh tịnh là muốn khiến cho đức Như Lai vì các vị Bồ tát, rộng rãi tuyên nói, phân biệt việc đặc biệt kỳ lạ, xưng dương Kinh điển Ðại Thừa Phương Ðẳng. Ðức Như Lai Ðại bi nay đã khéo léo giảng nói rồi thì con cũng như vậy mà an trụ ở trong ấy. Ðức Phật đã nói những hành xử thanh tịnh của Bồ tát tức là tuyên nói Kinh Ðại Niết Bàn. Thưa đức Thế Tôn! Con nay cũng sẽ rộng vì chúng sinh hiển dương Như Lai bí tạng như vậy, cũng sẽ chứng biết chỗ Tam qui chân thật. Nếu có chúng sinh có thể tin như vậy Kinh Ðại Niết Bàn thì người ấy có thể tự nhiên liễu đạt chỗ tam qui y. Vì sao vậy? Vì Như Lai bí tạng có Phật tính. Những người ấy có tuyên nói Kinh điển này thì đều nói rằng, tận cùng trong thân có Phật tính. Người như vậy thì chẳng cầu chỗ tam qui y xa vời. Vì sao vậy? Vì ở đời vị lai, thân con tức sẽ thành tựu Tam Bảo. Vậy nên những người Thanh Văn, Duyên Giác và những chúng sinh khác đều nương vào con mà cung kính lễ bái.
– Này thiện nam tử! Do ý nghĩa này nên ông cần phải học tập chân chính Kinh điển Ðại Thừa!
Ngài Ca Diếp lại nói rằng:
– Phật tính như vậy chẳng thể nghĩ bàn! Ba mươi hai tướng tốt, tám mươi vẻ đẹp cũng chẳng thể nghĩ bàn!
Lúc bấy giờ, đức Phật khen Bồ tát Ca Diếp rằng:
– Hay thay! Hay thay! Này thiện nam tử! Ông đã thành tựu trí tuệ sâu sắc. Ta nay sẽ lại khéo léo vì ông nói về Nhập Như Lai Tạng. Nếu Ngã “trụ” thì tức là pháp “thường” chẳng lìa khỏi khổ. Nếu Vô ngã thì tu hành tịnh hạnh không có lợi ích gì. Nên nói rằng, các pháp đều không có ngã thì tức là “đoạn kiến”. Nếu nói rằng, Ngã trụ thì tức là “Thường kiến”. Nếu nói rằng, tất cả hạnh vô thường thì tức là đoạn kiến, các hạnh thường thì lại là thường kiến. Nếu nói rằng, khổ thì tức là đoạn kiến. Nếu nói rằng vui thì lại là thường kiến. Tu tất cả pháp thường thì rơi vào đoạn kiến. Tu tất cả pháp đoạn thì rơi vào thường kiến. Như loài trùng co mình bước đi, cốt nhân chân trước mà được dời chân sau, tu thường, đoạn cũng lại như vậy, cốt yếu nhân ở đoạn, thường. Do ý nghĩa đó nên tu pháp khổ khác thì đều gọi là bất thiện, tu pháp lạc khác thì gọi là thiện, tu pháp Vô ngã khác thì chính là những phận phiền não, tu pháp thường khác thì gọi là Như Lai bí tạng, như là Niết Bàn không có hang động nhà cửa, tu vô thường pháp khác thì tức là của cải, tu pháp thường khác thì gọi là Phật – Pháp – Tăng và chánh giải thoát… Ông phải biết, như vậy Phật pháp là trung đạo, xa lìa nhị biên (hai biên) mà nói chân pháp, người phàm phu ngu si ở giữa không nghi hoặc. Như người bệnh yếu đuối ăn uống váng sữa rồi khí lực nhẹ tênh. Pháp có, không thì thể tính bất định. Ví như bốn đại, tính chúng chẳng đồng, đều tự trái ngược nhau, thầy thuốc giỏi khéo biết tùy theo sự phát thiên lệch của chúng mà tiêu dứt chúng. Này thiện nam tử! Như Lai cũng vậy, đối với các chúng sinh giống như thầy thuốc giỏi, biết thể tướng của các phiền não sai khác mà vì họ đoạn trừ, mở bày Tạng bí mật của Như Lai, Phật tính thanh tịnh thường trụ bất biến. Nếu nói rằng, có thì trí chẳng nên nhiễm, nếu nói rằng, không thì tức là nói dối. Nếu nói rằng, có thì chẳng nên mặc nhiên, cũng lại chẳng nên hí luận tranh cãi mà chỉ cầu rõ biết chân tính các pháp. Người phàm phu hí luận tranh cãi, chẳng giải được vi mật tạng của Như Lai. Nếu nói đến khổ thì người ngu liền cho rằng, thân là vô thường, nói rằng, tất cả khổ, lại chẳng thể biết thân có tính vui (lạc). Nói vô thường thì người phàm phu cho là tất cả thân đều là vô thường. Ví như ngói thô (ngói mộc, ngói chưa nung). Người có trí cần phải phân biệt, chẳng nên nói hết tất cả vô thường. Vì sao vậy? Vì thân của Ngã tức là có hạt giống của Phật tính. Nếu nói Vô ngã thì người phàm phu sẽ cho rằng, tất cả Phật pháp đều không có Ngã. Kẻ trí cần phải phân biệt Vô ngã giả danh, chẳng thật mà biết như vậy rồi thì chẳng nên sinh ra nghi ngờ. Nếu nói rằng, Như Lai bí tạng rỗng không tịch mịch thì phàm phu nghe thế liền sinh ra đoạn diệt kiến. Người có trí cần phải phân biệt Như Lai là thường trụ không có biến dịch. Nếu nói rằng Giải thoát ví như huyễn hóa thì phàm phu sẽ gọi được giải thoát chân chính tức là ma diệt (mòn hết). Người có trí cần phải phân biệt bậc sư tử trong loài người tuy có đi, lại nhưng thường trụ không biến đổi. Nếu nói rằng, vô minh nhân duyên các hành thì người phàm phu nghe rồi phân biệt sinh ra nhị pháp tưởng là minh cùng vô minh. Kẻ trí liễu đạt tính ấy không hai. Tính không hai tức là tính chân thật. Nếu nói các hành nhân duyên thức thì phàm phu cho là hai, hành cùng thức. Kẻ trí liễu đạt tính hai thứ ấy không hai. Tính không hai tức là tính chân thật. Nếu nói mười thiện, mười ác, có thể tác, chẳng thể tác, đường thiện, đường ác, bạch pháp, hắc pháp… phàm phu cho là hai, kẻ trí liễu đạt thì tính ấy không hai. Tính không hai tức là tính chân thật. Nếu nói rằng, nên tu tất cả pháp khổ. Phàm phu cho là hai, kẻ trí liễu đạt tính ấy không hai. Tính không hai tức là tính chân thật. Nếu nói rằng, tất cả hành Vô thường Như Lai mật tạng cũng là Vô thường thì kẻ phàm cho là hai còn người trí liễu đạt tính ấy không hai. Tính không hai tức là tính chân thật. Nếu nói rằng, tất cả tất cả pháp Vô ngã, Như Lai bí tạng cũng không có ngã thì phàm phu cho là hai, kẻ trí liễu đạt tính ấy không hai. Tính không hai tức là tính chân thật. Ngã cùng Vô ngã, tính chúng không có hai. Như Lai bí tạng, nghĩa ấy như vậy, chẳng thể xưng kể, vô lượng vô biên các đức Phật khen ngợi. Ta nay ở trong Kinh tất cả công đức thành tựu này đều đã nói hết.
Này thiện nam tử! Ngã cùng Vô ngã, tính tướng không hai. Các ông nên thọ trì kính trọng như vậy! Này thiện nam tử! Ông cũng cần phải kiên trì nhớ nghĩ Kinh điển như vậy! Như ta trước ở trong Kinh Bát Nhã Balamật nói về ngã, Vô ngã không có hai tướng, như nhân vào sữa sinh ra cao sữa, nhân cao sữa được sinh ra váng sữa, nhân váng sữa được váng sữa chín, nhân váng sữa chín được đề hồ. Như vậy tính của cao sữa là từ sữa sinh ra, nó là từ tự mình sinh ra hay từ cái khác sinh ra vậy?… cho đến đề hồ cũng lại như vậy. Nếu nó từ cái khác sinh ra thì tức là cái khác tạo ra chứ chẳng phải là sữa sinh ra. Nếu chẳng phải sữa sinh ra thì sữa làm gì? Nếu tự mình sinh ra thì chẳng nên tương tợ nối tiếp nhau mà sinh ra. Nếu nối tiếp nhau sinh ra thì chẳng đều sinh (câu sinh). Nếu chẳng câu sinh thì năm thứ vị chẳng cùng một lúc. Tuy chẳng cùng một lúc nhưng nhất định chẳng từ chỗ khác đến vậy. Ông phải biết rằng, trong sữa trước có tướng cao sữa, vị ngọt nhiều nên chẳng thể tự biến đổi… cho đến đề hồ cũng lại như vậy. Trâu này nhân duyên vào việc ăn uống nước, cỏ rồi huyết mạch chuyển biến mà được thành sữa. Nếu trâu ăn cỏ ngọt thì sữa ấy ngọt. Nếu trâu ăn cỏ đắng thì sữa có vị đắng. Núi Tuyết có loại cỏ tên là Phì Nhị mà nếu trâu ăn thì thuần được đề hồ, không có màu xanh vàngđỏ trắng đen. Do nhân duyên cỏ lúa nên sữa ấy có khác về sắc vị, những chúng sinh này do nhân duyên nghiệp minh, vô minh nên sinh ra hai tướng. Nếu vô minh chuyển thì biến thành minh. Tất cả các pháp thiện, bất thiện.v.v… cũng lại như vậy, không có hai tướng.
Bồ tát Ca Diếp bạch đức Phật rằng:
– Thưa đức Thế Tôn! Như lời nói đức Phật, trong sữa có cao sữa là nghĩa làm sao? Thưa đức Thế Tôn! Nếu nói rằng, trong sữa nhất định có tướng của cao sữa, vì vi tế nên chẳng thể thấy thì sao nói rằng, từ nhân duyên sữa mà sinh ra cao sữa? Pháp nếu vốn không thì gọi là sinh. Như sinh ấy đã có thì sao gọi rằng sinh? Nếu nói rằng, trong sữa nhất định có tướng của cao sữa mà trong trăm loài cỏ cũng cần có sữa. Như vậy trong sữa cũng cần có cỏ! Nếu nói rằng, trong sữa nhất định không có cao sữa thì làm sao nhân sữa mà được cao sữa. Nếu pháp vốn không mà sau sinh ra thì vì cớ gì trong sữa chẳng sinh ra cỏ?
– Này thiện nam tử! – Ðức Phật nói – Chẳng thể nhất định nói rằng, trong sữa có cao sữa, trong sữa không có cao sữa, cũng chẳng thể nói rằng, từ cái khác mà sinh ra. Nếu nói rằng, trong sữa nhất định có cao sữa thì sao mà cái được thể, vị đều khác. Vậy nên chẳng thể nói rằng, trong sữa nhất định có tính của váng sữa. Nếu nói rằng, trong sữa nhất định không có váng sữa thì trong sữa vì sao chẳng sinh ra sừng con thỏ? Cầm bằng cao sữa trong sữa độc thì giết người. Vậy nên chẳng thể nói rằng, trong sữa nhất định không có tính của cao sữa. Nếu nói rằng, cao sữa này từ cái khác sinh ra thì vì sao trong nước chẳng sinh ra váng sữa. Vậy nên chẳng thể nói rằng, cao sữa từ cái khác sinh ra. Này thiện nam tử! Con trâu này nhân duyên ăn cỏ nên máu biến thành trắng, cỏ và máu diệt mất rồi nhờ phước lực của chúng sinh biến đổi mà thành sữa. Sữa đó tuy từ cỏ và máu mà ra nhưng chẳng được nói rằng hai mà chỉ được gọi là từ nhân duyên sinh ra. Từ váng sữa đến đề hồ cũng lại như vậy. Do ý nghĩa này nên được gọi là ngưu vị. Sữa đó diệt rồi nhờ nhân duyên thành ra cao sữa. Những gì là nhân duyên? – Hoặc sang qua rót lại, hoặc đun cho nóng ấm… Vậy nên được gọi là từ nhân duyên mà có… cho đến đề hồ cũng lại như vậy. Vậy nên chẳng được nhất định nói rằng, trong sữa không có tướng của cao sữa. Từ cái khác sinh ra là lìa khỏi sữa mà có thì không có điều đó. Này thiện nam tử! Minh cùng vô minh cũng lại như vậy. Nếu chung cùng với các kết phiền não thì gọi là vô minh còn nếu chung cùng với tất cả thiện pháp thì gọi là minh. Vậy nên ta nói rằng, không có hai tướng. Do nhân duyên này mà trước ta nói rằng, núi Tuyết có loài cỏ tên là Phì Nhị, nếu trâu ăn vào thì liền thành Ðề hồ. Phật tính cũng vậy.
Này thiện nam tử! Chúng sinh phước mỏng chẳng thấy loài cỏ đó, Phật tính cũng vậy, bị phiền não che nên chúng sinh chẳng thấy. Ví như biển cả, tuy đồng một vị mặn nhưng trong biển ấy cũng có thứ nước thượng diệu, vị đồng với sữa. Ví như núi Tuyết tuy lại thành tựu đủ thứ công đức, sinh ra nhiều những thứ dược thảo, nhưng cũng có cỏ độc. Thân của các chúng sinh cũng lại như vậy, tuy có bốn thứ “Ðại” rắn độc, nhưng trong thân ấy cũng có diệu dược Ðại Vương như là Phật tính, chẳng phải là pháp tạo tác mà chỉ bị sự che phủ của khách trần phiền não. Nếu Sát lợi, Bà la môn, Tỳ xá, Thủ đà có thể đoạn trừ chúng thì liền thấy Phật tính, thành đạo Vô thượng. Ví như hư không động sấm dậy mây thì trên tất cả ngà voi đều sinh ra hoa. Nếu không sấm rền thì hoa chẳng sinh ra, cũng không có danh tự. Phật tính của chúng sinh cũng lại như vậy, thường bị sự che phủ của tất cả phiền não nên chẳng thể được thấy. Vậy nên ta nói, chúng sinh Vô ngã! Nếu họ được nghe Kinh điển Ðại Bát Niết Bàn vi diệu thì thấy được Phật tính như hoa ngà voi. Tuy người nghe được khế kinh, tất cả tam muội nhưng chẳng nghe Kinh này thì chẳng biết được tướng vi diệu của Như Lai như khi không tiếng sấm thì hoa trên ngà voi chẳng thể được thấy. Người nghe Kinh này rồi thì liền biết tất cả lời nói mật tạng Phật tính của Như Lai. Ví như trời nổi sấm thì thấy hoa ngà voi, nghe Kinh này rồi thì liền thấy tất cả vô lượng chúng sinh đều có Phật tính. Do ý nghĩa này nên nói rằng, Ðại Niết Bàn gọi là Như Lai bí mật tạng tăng trưởng pháp thân, giống như khi nổi sấm thì hoa trên ngà voi có thể trưởng dưỡng. Do đại nghĩa như vậy nên được gọi là Ðại Bát Niết Bàn. Nếu có thiện nam tử, thiện nữ nhân có thể tu tập Kinh điển Ðại Niết Bàn vi diệu này thì ông phải biết, người đó có thể báo ân Phật, là đệ tử Phật chân chính.
Bồ tát Ca Diếp bạch đức Phật rằng:
– Rất lạ lùng! Thưa đức Thế Tôn! Lời nói về Phật tính của ngài rất sâu! Rất sâu! Khó thấy! Khó vào! Ðiều mà Thanh Văn, Duyên Giác chẳng thể lý giải được.
Ðức Phật dạy rằng:
– Này thiện nam tử! Ðúng vậy! Ðúng vậy! Ðúng như lời khen của ông, chẳng trái với lời nói của ta!
Bồ tát Ca Diếp bạch đức Phật rằng:
– Thưa đức Thế Tôn! Phật tính thì sao gọi là rất sâu khó thấy khó vào?
Ðức Phật dạy rằng:
– Này thiện nam tử! Như một trăm người mù vì trị liệu mắt nên tìm đến lương y. Khi đó vị lương y liền dùng cái thẻ vàng khui (vạch ra) nhãn mạc (màn mắt) của người ấy, rồi dùng một ngón tay đưa lên hỏi rằng, thấy không? Người mù đáp rằng: “Tôi còn chưa thấy!” Thầy thuốc dùng hai ngón tay, ba ngón tay đưa lên hỏi người đó. Người đó mới nói rằng: “Thấy ít!” Này thiện nam tử! Kinh điển Ðại Niết Bàn vi diệu này khi mà Như Lai chưa nói cũng lại như vậy! Vô lượng Bồ tát tuy làm đầy đủ những Ba la mật… cho đến Thập trụ còn chưa có thể thấy Phật tính sẵn có mà khi Như Lai đã nói Kinh ấy thì liền thấy chút ít. Những Ðại Bồ tát này đã được thấy rồi thì đều nói lên rằng: “Rất lạ! Thưa đức Thế Tôn! Chúng con lưu chuyển trong vô lượng sinh tử thường bị sự mê hoặc nhiễu loạn của Vô ngã”. Này thiện nam tử! Như vậy, Bồ tát ở địa vị Thập địa còn chẳng thấy biết Phật tính sáng rõ, huống gì là người Thanh Văn, Duyên Giác mà có thể được thấy sao? Lại nữa, này thiện nam tử! Ví như người ngước xem hư không, chim ngỗng, chim nhạn là chính hư không, là chính ngỗng nhạn, quan sát kỹ chẳng thôi mà phảng phất thấy chúng. Bồ tát Thập Trụ đối Như Lai tính thấy biết chút ít cũng lại như vậy, huống lại là người Thanh Văn, Duyên Giác mà có thể thấy biết. Này thiện nam tử! Ví như người say rượu muốn lặn lội đường xa, nhìn thấy đường mông lung. Bồ tát Thập Trụ đối với Như Lai tính, thấy biết chút ít phần cũng lại như vậy. Này thiện nam tử! Ví như người khát đi nơi vùng khoáng dã. Người khát đó bức bối đi khắp tìm nước, thấy có chòm cây rậm, trên cây có con Hạc trắng. Người đó mê muộn chẳng thể phân biệt là cây hay là nước, quan sát kỹ chẳng thôi, mới thấy con hạc trắng và chòm cây rậm. Này thiện nam tử! Bồ tát Thập trụ đối với Như Lai tính, thấy biết ít phần cũng lại như vậy. Này thiện nam tử! Ví như có người ở tại trong biển cả, xa đến vô lượng trăm ngàn do tuần thấy có thuyền lớn, lâu các, nhà cửa… liền tác khởi ý niệm này, đó là lâu các nhà cửa hay là hư không? Nhìn lâu, người ấy mới sinh ra lòng quyết định, biết chính là lâu các… Bồ tát Thập Trụ ở trong tự thân, thấy Như Lai tính cũng lại như vậy. Này thiện nam tử! Ví như vị vương tử, thân thể rất nhu nhược, suốt đêm du hí đến tận sáng hôm sau, mắt nhìn tất cả đều chẳng rõ ràng. Bồ tát Thập Trụ đối với thân mình, thấy tính Như Lai cũng lại như vậy, chẳng thấy rõ ràng lắm. Lại nữa, này thiện nam tử! Ví như vị quan bề tôi bị sự bắt ép việc vua đến đêm mới trở về nhà, nhân chớp sáng phát lên thấy bầy trâu, liền có ý nghĩ rằng, đây là bầy trâu, hay là đám mây, hay là nhà? Người đó nhìn lâu tuy sinh ý tưởng là trâu nhưng còn chẳng xác định. Bồ tát Thập Trụ tuy đối với thân mình có thấy tính Như Lai nhưng chưa có thể xác định cũng lại như vậy. Lại nữa, này thiện nam tử! Như vị Tỳ kheo trì giới quan sát nước không có trùng mà thấy tướng của trùng liền tác khởi ý niệm này, cái động đậy trong nước là trùng hay là bụi đất vậy? Nhìn mãi chẳng thôi, ông tuy biết là bụi nhưng cũng chẳng rõ ràng. Bồ tát Thập Trụ ở trong thân mình có thấy tính Như Lai, cũng lại như vậy, chẳng rõ ràng lắm. Lại nữa, này thiện nam tử! Ví như có người ở trong bóng tối, từ xa nhìn thấy đứa trẻ liền tác khởi ý niệm này, đó là trâu hay là người, hay là chim vậy? Nhìn mãi chẳng thôi, tuy thấy là đứa trẻ nhưng còn chẳng rõ ràng. Bồ tát Thập Trụ ở trong thân mình có thấy tính Như Lai, cũng lại như vậy, chẳng rõ ràng lắm. Lại nữa, này thiện nam tử! Ví như có người ở trong đêm tối thấy hình họa Bồ tát liền tác khởi ý niệm này, là tượng Bồ tát hay là tượng Tự Tại Thiên hay là tượng Ðại Phạm Thiên mặc áo nhuộm vậy? Người đó nhìn lâu tuy lại nghĩ là chính tượng Bồ tát nhưng cũng chẳng rõ ràng. Bồ tát Thập trụ ở trong thân mình có thấy tính Như Lai, cũng lại như vậy, chẳng rõ ràng lắm. Này thiện nam tử! Phật tính sở hữu thậm thâm như vậy, khó được thấy biết, chỉ có Phật có thể biết, chẳng phải điều theo kịp của những Thanh Văn, Duyên Giác. Này thiện nam tử! Người trí nên tạo tác sự phân biệt tính Như Lai như vậy.
Bồ tát Ca Diếp bạch đức Phật rằng:
– Thưa đức Thế Tôn! Phật tính vi tế khó biết như vậy thì làm sao mắt thịt mà có thể thấy được?
Ðức Phật dạy ngài Ca Diếp rằng:
– Này thiện nam tử! Như trời Phi Tưởng Phi Phi Tưởng cũng chẳng phải là điều có thể biết của hàng Nhị Thừa, mà chỉ thuận theo khế kinh, do niềm tin nên biết thôi! Này thiện nam tử! Thanh Văn, Duyên Giác tín thuận Kinh Ðại Niết Bàn như vậy thì tự biết thân mình có tính Như Lai, cũng lại như vậy. Này thiện nam tử! Vậy nên ông cần phải tinh cần tu tập Kinh Ðại Niết Bàn! Này thiện nam tử! Như vậy Phật tính chi Phật mới có thể biết, chẳng phải là sự theo kịp của những Thanh Văn, Duyên Giác.
Bồ tát Ca Diếp bạch đức Phật rằng:
– Thưa đức Thế Tôn! Chẳn phải Thánh, phàm phu có tính chúng sinh đều nói có Ngã!
Ðức Phật dạy rằng:
– Ví như hai người chung làm bạn bè, một người là con vua, một người là người nghèo hèn, như vậy hai người qua lại giúp đỡ nhau. Khi đó, người nghèo thấy vị vương tử đó có một con dao đẹp tịnh diệu đệ nhất, trong lòng tham trước. Thời gian sau vương tử nắm giữ con dao này trốn đến nước khác. Người nghèo về sau ở nhờ nhà người khác, ở trong giấc ngủ chợt tỉnh nói rằng: “Dao! Dao!” Người bên cạnh nghe lời đó bắt đem đến chỗ vua. Nhà vua hỏi rằng: “Ngươi nói dao thì có thể đem trình bày cho ta!” Người đó đem việc trên tâu vua đầy đủ và nói rằng: “Nhà vua nay giả sử mổ cắt thân của thần chia rời tay chân để muốn được dao thì thật chẳng thể được. Thần cùng với vương tử vốn là chỗ thân hậu, trước ở chung một chỗ, tuy mắt đã từng thấy nhưng thậm chí chẳng dám lấy tay động chạm vào, huống gì có lấy”. Nhà vua lại hỏi rằng: “Khanh đã thấy tướng mạo của dao loại gì?” Ðáp rằng: “Thưa Ðại vương! Cái thần thấy thì giống như sừng của con dê đen”. Nhà vua nghe thế rồi cười vui vẻ mà nói rằng: “Ông nay đi đâu tùy ý, chớ sinh lo sợ! Trong kho tàng của ta đều không có dao như vậy, huống là ngươi ở bên vương tử mới thấy?” Nhà vua liền hỏi các quần thần rằng: “Các ông đã từng thấy dao như vậy không?” Nói rồi, nhà vua liền băng (chết). Quần thần liền lập người con khác nối dõi ngôi vua. Vị vua đó lại hỏi quần thần: “Các ông đã từng thấy ở trong kho tàng của triều đình (nhà quan) có con dao đó không?” Các bề tôi đáp rằng: “Chúng thần đã từng thấy!” Lại hỏi nữa rằng: “Hình trạng ấy giống cái gì?” Ðáp rằng: “Thưa Ðại vương! Giống như sừng con dê den”. Nhà vua nói rằng: “Trong kho tàng của ta vì duyên gì sẽ có con dao tướng như vậy”. Rồi lần lượt bốn vị vua kiểm nghiệm tìm kiếm mà chẳng được. Sau một thời gian, vị vương tử đào tẩu từ nước khác trở về đất nước của mình, lại được làm vua. Ðã lên ngôi vua rồi, ngài lại hỏi các bề tôi rằng: “Các ông có thấy dao không?” Họ đáp rằng: “Thưa Ðại vương! Chúng thần đều thấy!” Vua lại hỏi rằng: “Hình trạng dao ấy giống cái gì?” Họ đáp rằng: “Hình sắc dao ấy thanh tịnh như hoa Ưu bát la”. Lại có người đáp rằng: “Hình dáng như sừng dê”. Lại có người đáp rằng: “Hình sắc dao ấy đỏ hồng giống như đám lửa”. Lại có người đáp rằng: “Giống như con rắn đen”. Nhà vua cả cười nói rằng: “Các khanh đều chẳng thấy tướng chân thật dao của ta!” Này thiện nam tử! Ðại Bồ tát cũng lại như vậy, xuất hiện ở đời, nói chân tướng của Ngã, nói rồi bỏ đi ví như vị vương tử cầm giữ dao tịnh diệu trốn đến nước khác. Người ngu phàm phu nói rằng: “Có ngã! Có ngã!” như người nghèo kia ở nhờ nhà người khác, thức dậy kêu rằng: “Dao! Dao!”. Thanh Văn, Duyên Giác hỏi các chúng sinh: “Ngã có hình tướng ra sao?” Họ đáp rằng: “Tôi thấy tướng của ngã lớn như ngón tay cái!” Hoặc nói rằng: “Như hạt gạo, hoặc như hạt kê!” Hoặc có người nói rằng: “Tướng của Ngã ở tại trong lòng, rực sáng như mặt trời!” Như vậy chúng sinh chẳng biết tướng của Ngã ví như các bề tôi chẳng biết tướng của con dao. Bồ tát nói về Ngã pháp như vậy mà phàm phu chẳng biết nên hư vọng tạo tác phân biệt đủ thứ tướng của Ngã như hỏi tướng của dao, đáp giống như sừng dê. Những phàm phu đó theo thứ lớp tiếp nối nhau mà khởi lên tà kiến. Vì đoạn trừ những tà kiến như vậy nên Như Lai thị hiện nói lên Vô ngã, ví như vị vương tử nói cho các bề tôi rằng: “Trong kho tàng của ta không có dao như vậy!” Này thiện nam tử! Lời nói về chân ngã của Như Lai hôm nay gọi là Phật tính. Như vậy Phật tính trong Phật pháp của ta ví như con dao thanh tịnh. Này thiện nam tử! Nếu có kẻ phàm phu có thể khéo diễn nói thì tức là thuận theo pháp Phật Vô thượng. Nếu có người giỏi có thể phân biệt, thuận theo, tuyên nói vấn đề đó thì ông phải biết đó tức là tướng mạo Bồ tát.
13. PHẨM VĂN TỰ
Ðức Phật lại bảo ngài Ca Diếp rằng:
– Sẵn có đủ thứ dị luận, chú thuật, ngôn ngữ, văn tự… đều là Phật nói, chẳng phải ngoại đạo nói.
Ngài Ca Diếp Bồ tát bạch đức Phật rằng:
– Thưa đức Thế Tôn! Sao gọi là đức Như Lai nói về căn bản của chữ (tự)?
Ðức Phật nói rằng:
– Này thiện nam tử! Ðầu tiên nói nửa chữ (bán tự) để làm căn bản giữ gìn những ký luận, chú thuật, văn chương, các thật pháp của ấm. Người phàm phu học căn bổn của chữ như vậy, vậy sau mới biết là pháp hay phi pháp.
Bồ tát Ca Diếp lại bạch đức Phật rằng:
– Thưa đức Thế Tôn! Cái gọi là chữ thì nghĩa ấy ra sao?
– Này thiện nam tử! Có mười bốn âm gọi là tự nghĩa. Cái gọi rằng chữ thì gọi là Niết Bàn, thường cố định chẳng trôi chảy. Nếu chẳng trôi chảy thì tức là vô tận. Phàm đã vô tận thì tức là thân Như Lai Kim Cương. Mười bốn âm này gọi là tự bản (gốc chữ). A ngắn là chẳng phá hoại mà chẳng phá hoại thì gọi là Tam Bảo, ví như Kim Cương. Lại nữa, A thì chẳng trôi chảy mà chẳng trôi chảy thì tức là Như Lai. Chín lỗ của Như Lai không có sự trôi chảy nên chẳng trôi chảy. Lại không có chín lỗ nên chẳng trôi chảy. Chẳng trôi chảy tức là thường còn mà thường còn tức là Như Lai. Như Lai không tạo tác nên chẳng trôi chảy. Lại nữa, chữ A thì gọi là công đức mà công đức tức là Tam bảo. Vậy nên gọi là A. Tiếp đến là A dài thì gọi là A xà lê. A xà lê nghĩa là gì vậy? Nghĩa là ở trong thế gian được gọi là Thánh giả. Sao gọi là Thánh? Gọi là Thánh thì không nhiễm trước, thiểu dục, tri túc, cũng gọi là Thanh tịnh, có thể độ chúng sinh lưu chuyển trong bể cả sinh tử ở ba cõi. Ðó gọi là Thánh. Lại nữa, chữ A gọi là chế độ, tu trì tịnh giới, thuận theo uy nghi. Lại nữa, chữ A gọi là nương (y) thánh nhân học theo uy nghi tiến, dừng, cử động, cúng dường, cung kính, lễ bái Tam Tôn, hiếu thuận, phụng dưỡng cha mẹ và học Ðại Thừa. Những thiện nam nử trì đủ cấm giới và các Ðại Bồ tát.v.v… đều được gọi là Thánh nhân. Lại nữa, chữ A gọi là Giáo hối (dạy răn). Như nói rằng: “Các ông nên làm như vầy! Chớ làm như vầy!” Nếu người có thể ngăn chận những pháp chẳng phải oai nghi thì gọi là Thánh nhân. Vậy nên gọi là chữ A.
Chữ Y ngắn tức là Phật pháp, phạm hạnh rộng lớn, thanh tịnh không cấu bẩn ví như trăng tròn đầy. Các ông nên làm, chẳng nên làm như vậy, là nghĩa là phi nghĩa, đây là Phật nói, đây là ma nói, đó gọi là Y. Y dài là Phật pháp vi diệu thậm thâm khó được. Như pháp của trời Tự Tại, trời Ðại Phạm thì gọi là tự tại mà nếu người có thể trì giữ thì gọi là hộ pháp. Lại nữa, Tự tại thì gọi là bốn hộ thế. Bố tự tại này thì có thể nhiếp hộ Kinh Ðại Niết Bàn, cũng có thể trình bày diễn nói. Lại nữa, chữ Y là có thể vì chúng sinh mà tự tại nói pháp. Lại nữa, chữ Y là tự tại thì nên nói những gì đó vậy? Ðiều đó gọi là tu tập Kinh điển Phương Ðẳng. Lại nữa, chữ Y là đoạn dứt tật đố (ganh ghét) như diệt trừ cỏ xấu, khiến cho tất cả đều biến thành kiết tường (tốt đẹp). Vậy nên gọi là Y.
Chữ Ưu ngắn là ở trong Kinh, cái tối thượng, tối thắng, tăng trưởng lên trên hết thì gọi là Ðại Niết Bàn. Lại nữa, chữ Ưu là tính của Như Lai, điều chưa từng nghe của Thanh Văn, Duyên Giác, như tất cả xứ thì xứ Uất Ðan Việt phương Bắc là tối thù thắng. Bồ tát nếu có thể thính thọ Kinh này thì đối với tất cả chúng sinh là bậc tối thượng, tối thắng. Vậy nên gọi Ưu. Ưu dài là ví như sữa trâu so trong các vị là trên hết. Tính Như Lai cũng lại như vậy, ở trong các Kinh là tối tôn, tối thượng. Nếu có ai bài báng thì ông phải biết, người đó cùng với trâu không khác biệt. Lại nữa, chữ Ưu là người gọi là không có trí tuệ, chánh niệm mà bài báng Như Lai vi mật bí tạng thì phải biết là người đó rất đáng thương xót, xa lìa tạng bí mật của Như Lai mà nói pháp Vô ngã. Vậy nên gọi là Ưu.
Chữ Sẩn tức là các Phật pháp tính Niết Bàn. Ðó gọi là Sẩn. Dã là gọi nghĩa của Như Lai. Lại nữa, Dã là tiến dừng co duỗi, cử động của Như Lai không gì chẳng lợi ích cho tất cả chúng sinh. Vậy nên gọi là Dã.
Chữ Ô là tên gọi nghĩa phiền não mà phiền não gọi là các lậu. Như Lai vĩnh viễn đoạn trừ tất cả phiền não nên gọi là Ô. Pháo là gọi nghĩa Ðại Thừa, đối với mười bốn âm là nghĩa cứu cánh. Kinh điển Ðại Thừa cũng lại như vậy, đối với các kinh luận là tối cứu cánh. Vậy nên gọi là Pháo.
Am là có thể ngăn chặn tất cả các vật bất tịnh, ở trong Phật pháp, có thể xả bỏ tất cả vật báu, vàng, bạc. Vậy nên gọi là Am. Chữ A ( ) là gọi nghĩa Thắng Thừa. Vì sao vậy? Vì Kinh điển Ðại Thừa Ðại Niết Bàn này ở trong các Kinh là tối thù thắng. Vậy nên gọi là A.
Chữ Ca là đối với các chúng sinh khởi lên Ðại Từ bi, sinh ra tử tưởng (tưởng là con) như La Hầu La, tạo tác nghĩa diệu thiện. Vậy nên gọi là Ca. Chữ Khư là gọi chẳng phải bạn lành mà chẳng phải bạn lành thì gọi là tạp uế, chẳng tin bí mật tạng của Như Lai. Vậy nên gọi là Khư. Dà là gọi tạng mà tạng tức là Như Lai bí tạng. Tất cả chúng sinh đều có Phật tính nên gọi là Dà. Trọng âm Dà là âm thường còn của Như Lai. Những gì là âm thường còn của Như Lai? Ðó là Như Lai thường trụ bất biến. Vậy nên gọi là Dà (trọng âm). Chữ Nga là tất cả các hành tướng phá hoại. Vậy nên gọi là Nga.
Già tức là nghĩa của tu; điều phục tất cả các chúng sinh nên gọi là nghĩa của tu. Vậy nên gọi là Già. Xa là Như Lai che phủ tất cả chúng sinh ví như bảo cái lớn. Vậy nên gọi là Xa. Xà là chánh giải thoát, không có tướng già. Vậy nên gọi là Xà. Chữ Xà trọng âm là phiền não ràng rịt ví như rừng rậm. Vậy nên gọi là Xà (trọng âm). Chữ Nhã là nghĩa trí tuệ, biết tính pháp chân thật. Vậy nên gọi là Nhã. Chữ Tra là ở cõi Diêm phù đề thị hiện bán thân mà diễn nói pháp ví như bán nguyệt (nửa vầng trăng). Vậy nên gọi là Tra. Chữ Tha là pháp thân đầy đủ ví như vầng trăng tròn đầy. Vậy nên gọi là Tha. Chữ Trà là Tăng ngu si, chẳng biết thường cùng vô thường ví như đứa trẻ. Vậy nên gọi là Trà. Chữ Trà trọng âm là chẳng biết ơn thầy ví như con dê đen. Vậy nên gọi là Trà (trọng âm). Chữ Noa là chẳng phải là Thánh nghĩa ví như ngoại đạo. Vậy nên gọi là Noa.Chữ Ða là Như Lai ở đó bảo, các Tỳ kheo nên lìa khỏi kinh sợ, ta sẽ vì các ông nói pháp vi diệu. Vậy nên gọi là Ða. Chữ Tha là gọi nghĩa ngu si. Chúng sinh lưu chuyển trong sinh tử tự trói buộc như con tằm. Vậy nên gọi là Tha. Chữ Ðà là gọi rằng Ðại thí như là Ðại Thừa. Vậy nên gọi là Ðà. Chữ Ðà trọng âm là xưng tán công đức. Ðó là Tam Bảo như núi Tu Di cao ngất rộng lớn, không có điên đão. Ðó gọi là Ðà. Chữ Na là Tam Bảo an trụ không có khuynh động ví như cái then cửa. Vậy nên gọi là Na. Chữ Ba là gọi nghĩa điên đão. Nếu nói rằng, Tam Bảo đều diệt hết thì phải biết là người này tự nghi hoặc. Vậy nên gọi là Ba. Chữ Pha là tai ách của thế gian. Nếu có người nói rằng, khi tai ách của thế gian khởi lên thì Tam Bảo cũng hết, phải biết là người đó ngu si, vô trí, trái lỗi Thánh chỉ. Vậy nên gọi là Pha. Chữ Bà là gọi mười lực của Phật. Vậy nên gọi là Bà. Chữ Bà trọng âm là gọi gánh nặng. Người đủ sức gánh vác Chánh pháp Vô thượng thì phải biết người đó là Ðại Bồ tát. Vậy nên gọi Bà. Chữ Ma là các Bồ tát với chế độ trang nghiêm cao vời, gọi là Ðại Bát Niết Bàn của Ðại Thừa. Vậy nên gọi là Ma. Tà (gia?) là các Bồ tát ở tại khắp nơi nơi vì những chúng sinh nói pháp Ðại Thừa. Vậy nên gọi là Tà. La là có thể hoại tan tham dục, sân nhuế, ngu si, nói pháp chân thật. Vậy nên gọi là La. Chữ La khinh âm (âm nhẹ) là gọi hàng Thanh Văn thừa chuyển động chẳng trụ, Ðại Thừa yên ổn không có khuynh động. Bỏ Thanh Văn thừa, tinh cần tu tập Ðại Thừa vô thượng. Vậy nên gọi là La (khinh âm). Chữ Hòa là Như Lai Thế Tôn vì các chúng sinh mưa xuống Ðại Pháp Vũ, gọi là kinh sách, chú thuật của thế gian. Vậy nên gọi là Hòa. Chữ Xa ( ) là xa lìa ba mũi tên (tam độc?). Vậy nên gọi là Xa. Chữ Sa là gọi nghĩa đầy đủ. Nếu người có thể nghe Kinh Ðại Niết Bàn này thì tức là đã được nghe và thọ trì tất cả Kinh điển Ðại Thừa. Vậy nên gọi là Sa. Ta là vì các chúng sinh diễn nói chánh pháp, khiến cho lòng họ hoan hỷ. Vậy nên gọi là Ta. Ha là gọi tâm hoan hỷ khen: “Lạ thay! Ðức Thế Tôn lìa khỏi tất cả hành! Lạ thay! Ðức Như Lai vào Bát Niết Bàn!”. Vậy nên gọi là Ha. Chữ La là gọi Ma nghĩa. Vô lượng những ma chẳng thể hủy hoại Như Lai Bí Tạng. Vậy nên gọi là La. Lại nữa, chữ La là thậm chí thị hiện thuận theo thế gian, có cha mẹ, vợ con… Vậy nên gọi là La.
Lỗ, Lưu, Lô, Lâu, bốn chữ như vậy nói có bốn nghĩa là Phật, Pháp, Tăng và cả đối pháp. Nói đối pháp là thuận theo thế gian như Ðề Bà Ðạt Ða thị hiện hoại Tăng, hóa làm đủ thứ hình dáng sắc tượng Vì chế ra giới luật nên kẻ trí thông đạt biết rõ thì chẳng nên đối với việc này mà sinh ra kinh sợ. Ðó gọi là hành động tùy thuận thế gian. Do đó cho nên gọi là Lỗ, Lưu, Lô, Lâu.
Hít hơi vào cơ quan của lưỡi, theo tiếng của mũi, tiếng dài, ngắn vượt lên, tùy theo âm giải nghĩa, đều nhân vào lưỡi và răng mà có sai khác. Như vậy nghĩa của chữ có thể khiến cho chúng sinh thanh tịnh được khẩu nghiệp. Phật tính của chúng sinh thì chẳng ví với văn tự như vậy, rồi nhiên hậu thanh tịnh. Vì sao vậy? Vì Phật tính vốn tịnh, tuy ở tại trong ấm, giới, nhập mà chẳng đồng với ấm, giới, nhập. Vậy nên chúng sinh đều nên qui y. Các vị Bồ tát đều do Phật tính nên nhìn chúng sinh bình đẳng, không có sai biệt. Vậy nên “bán tự” đối với các kinh sách, ký luận, văn chương mà lấy làm căn bản. Lại, ý nghĩa của “bán tự” đều là nguồn gốc của lời nói phiền não nên gọi là “bán tự”. “Mãn tự” (chữ đầy đủ) thì mới là căn bản của tất cả lời nói thiện pháp vậy. Ví như người thế gian làm hạnh ác thì gọi là bán nhân (nửa người). Người tu hạnh thiện thì gọi là mãn nhân (người đầy đủ). Như vậy tất cả kinh sách, ký luận đều nhân vào “bán tự” mà làm căn bản. Nếu nói rằng, Như Lai và chánh giải thoát vào với “bán tự” thì việc đó chẳng đúng. Vì sao vậy? Vì lìa khỏi văn tự. Vậy nên Như Lai đối với tất cả pháp không ngăn ngại, không nhiễm trước, thật sự được giải thoát. Những gì gọi là giải rõ nghĩa của chữ? – Có người biết Như Lai xuất hiện ở đời có thể diệt “bán tự”. Vậy nên gọi là giải rõ nghĩa của chữ. Nếu có người theo đuổi nghĩa của “bán tự” thì người đó chẳng biết tính Như Lai. Cái gì gọi là Vô tự nghĩa? Người gần gũi tu tập pháp bất thiện thì đó gọi là “Vô tự” (không chữ). Lại, vô tự là tuy có thể gần gũi tu tập thiện pháp nhưng chẳng biết Như Lai thường cùng vô thường, hằng cùng phi hằng và Pháp, Tăng hai báu, luật cùng phi luật, kinh cùng phi kinh, ma nói, Phật nói… Nếu có người chẳng thể phân biệt như vậy thì đó gọi là theo đuổi nghĩa “vô tự” vậy. Ta nay đã nói về sự theo đuổi nghĩa “vô tự” như vậy. Này thiện nam tử! Vậy nên ông nay nên lìa khỏi “bán tự”, khéo lý giải “mãn tự”.
Bồ tát Ca Diếp bạch đức Phật rằng:
– Thưa đức Thế Tôn! Chúng con cần phải giỏi học tự số! Con nay đã gặp được bậc thầy Vô thượng, đã chịu lời dạy bảo ân cần của đức Như Lai!
Ðức Phật khen ngài Ca Diếp rằng:
– Hay thay! Hay thay! Người ưa Chính pháp thì nên học tập như vậy.
14. PHẨM ÐIỂU DỤ
Lúc bấy giờ, đức Phật bảo Bồ tát Ca Diếp rằng:
– Này thiện nam tử! Chim có hai giống, một tên là Ca lâu đê, hai tên là Uyên ương, bay đi hay dừng lại chung cùng, chẳng rời bỏ nhau. Những pháp như là Khổ, Vô thường, Vô ngã… cũng lại như vậy, chẳng được rời nhau.
Bồ tát Ca Diếp bạch đức Phật rằng:
– Thưa đức Thế Tôn! Sao gọi là Khổ, Vô thường, Vô ngã như là chim Uyên ương, Ca lâu đề kia?
Ðức Phật dạy rằng:
– Này thiện nam tử! Pháp khác là Khổ – pháp khác là Lạc, pháp khác là Thường – pháp khác là Vô thường, pháp khác là Ngã – pháp khác là Vô ngã. Ví như gạo lúa ngon khác với mè, lúa mạch, mè lúa mạch lại khác với đậu, lúa tẻ, mía đường. Các giống như vậy, từ mầm chồi của chúng cho đến hoa lá đều là vô thường. Khi quả trái chín thành, con người thọ dụng thì mới là thường. Vì sao vậy? Vì tính chân thật vậy.
Ngài Ca Diếp bạch đức Phật rằng:
– Thưa đức Thế Tôn! Những vật như vậy nếu là Thường thì đồng với Như Lai sao?
Ðức Phật dạy rằng:
– Này thiện nam tử! Ông nay chẳng nên nói lời như vậy. Vì sao vậy? Vì nếu nói rằng, Như Lai như núi Tu Di, khi kiếp hoại thì núi Tu Di đổ nát, Như Lai bấy giờ há đồng hủy hoại sao? Này thiện nam tử! Ông nay chẳng nên thọ trì nghĩa đó! Này thiện nam tử! Tất cả các pháp, chỉ trừ Niết Bàn, lại không một pháp nào mà là thường cả! Những vì thế đế nói rằng quả trái thường.
Bồ tát Ca Diếp bạch đức Phật rằng:
– Thưa đức Thế Tôn! Hay thay! Hay thay! Ðúng như lời nói của đức Phật!
Ðức Phật bảo ngài Ca Diếp rằng:
– Ðúng vậy! Ðúng vậy! Này thiện nam tử! Tuy tu tập tất cả Khế kinh, các định nhưng thậm chí chưa nghe Ðại bát Niết Bàn thì đều nói rằng, tất cả đều là vô thường. Nghe Kinh này rồi, tuy có phiền não mà như không phiền não, liền có thể lợi ích cho tất cả người, trời. Vì sao vậy? Vì hiểu rõ thân mình có Phật tính. Ðó gọi là Thường. Lại nữa, này thiện nam tử! Ví như cây Am La, hoa cây ấy mới nở thì gọi là vô thường tướng, nếu thành quả trái nhiều sự lợi ích thì mới gọi là thường. Như vậy, này thiện nam tử! Tuy tu học tất cả Khế kinh, các định nhưng khi chưa nghe Ðại Niết Bàn như vậy thì đều nói rằng, tất cả đều là vô thường. Nghe kinh này rồi, tuy có phiền não nhưng như không phiền não, liền có thể ích lợi cho tất cả người, trời. Vì sao vậy? Vì hiểu rõ tự thân có Phật tính. Ðó gọi là Thường – Lại nữa, này thiện nam tử! Ví như quặng vàng khi tiêu chảy ra là tướng vô thường. Tiêu chảy ra rồi thì thành vàng, nhiều sự lợi ích mới gọi là Thường. Như vậy, này thiện nam tử! Tuy tu học tất cả Khế kinh, các định nhưng khi chưa nghe Ðại Niết Bàn như vậy thì đều nói rằng, tất cả đều là vô thường. Nghe Kinh này rồi, tuy có phiền não nhưng như không phiền não, liền có thể lợi ích cho tất cả trời, người. Vì sao vậy? Vì hiểu rõ tự thân có Phật tính vậy. Ðó gọi là Thường. Lại nữa, này thiện nam tử! Ví như hạt mè khi chưa bị ép thì gọi là vô thường. Khi đã ép thành dầu, có nhiều lợi ích thì mới gọi là Thường. Này thiện nam tử! Tuy tu học tất cả Khế kinh, các định nhưng khi chưa nghe Ðại Niết Bàn như vậy thì đều nói rằng, tất cả đều là vô thường. Nghe Kinh này rồi, tuy có phiền não nhưng như không phiền não, liền có thể lợi ích cho tất cả trời, người. Vì sao vậy? Vì hiểu rõ thân mình có Phật tính vậy. Ðó gọi là Thường. Lại nữa, này thiện nam tử! Ví như mọi dòng nước đều về với biển, tất cả khế kinh, các định tam muội đều về với kinh Ðại Thừa Ðại Niết Bàn. Vì sao vậy? Vì rốt ráo giỏi nói có Phật tính. Này thiện nam tử! Vậy nên ta nói rằng, Pháp khác là thường, pháp khác là vô thường… cho đến Vô ngã cũng lại như vậy.
Bồ tát Ca Diếp bạch đức Phật rằng:
– Thưa đức Thế Tôn! Như Lai đã lìa khỏi tên độc ưu bi. Ưu bi thì gọi là trời mà Như Lai chẳng phải là trời. Ưu bi thì gọi là người mà Như Lai chẳng phải là người. Ưu bi là gọi người của hai mươi lăm cõi hữu mà Như Lai chẳng phải là người của hai mươi lăm cõi hữu. vậy nên Như Lai không có ưu bi mà vì sao xưng rằng, Như Lai ưu bi? Này thiện nam tử! Trời Vô tưởng thì gọi là vô tưởng. Nếu vô tưởng thì không thọ mạng. Nếu không thọ mạng thì làm sao mà có ấm, giới, các nhập. Do ý nghĩa này nên trời Vô tưởng thọ (sống lâu) chẳng thể nói rằng, có chỗ sở trụ. Này thiện nam tử! Ví như vị thần cây nương vào cây mà trụ, chẳng được nói nhất định rằng, nương cành, nương đốt, nương thân, nương lá. Tuy không định được chỗ nương nhưng chẳng được nói rằng không. Thọ của trời Vô tưởng cũng lại như vậy. Này thiện nam tử! Phật pháp cũng vậy, thậm thâm khó giải. Như Lai thật không ưu bi khổ não mà đối với chúng sinh khởi lên Ðại Từ Bi, thị hiện có ưu bi nhìn các chúng sinh như La Hầu La. Lại nữa, này thiện nam tử! Sở hữu thọ mạng trong trời Vô tưởng chỉ có Phật có thể biết, chẳng phải có ai khác bì kịp! Cho đến Phi Tưởng Phi Phi Tưởng Xứ cũng lại như vậy. Này Ca Diếp! Tính của Như Lai thanh tịnh, vô nhiễm giống như hóa thân. Sao gọi là phải có ưu bi khổ não? Nếu nói rằng, Như Lai có ưu bi khổ não thì làm sao có thể lợi cho tất cả chúng sinh, hoằng hóa Phật pháp rộng? Nếu nói rằng, không thì làm sao mà nói rằng bình đẳng nhìn chúng sinh như La Hầu La. Nếu chẳng bình đẳng nhìn chúng sinh như La Hầu La thì lời nói như vậy là hư vọng. Do ý nghĩa này nên, này thiện nam tử! Phật chẳng thể nghĩ bàn! Pháp chẳng thể nghĩ bàn! Phật tính của chúng sinh chẳng thể nghĩ bàn! Thọ của trời Vô tưởng chẳng thể nghĩ bàn! Như Lai có ưu và cả không ưu là cảnh giới của Phật, chẳng phải là điều hiểu biết của Thanh Văn, Duyên Giác. Này thiện nam tử! Ví như nhà cửa, vi trần chẳng thể trụ đứng trong hư không. Nhưng nếu nói rằng, nhà cửa chẳng nhân vào hư không mà trụ thì không có điều đó. Do ý nghĩa này nên chẳng thể nói nhà cửa trụ ở hư không hay chẳng trụ ở hư không. Người phàm phu tuy lại nói rằng, nhà cửa trụ ở hư không, nhưng mà hư không đó thật không sở trụ. Vì sao vậy? Vì tính không trụ vậy. Này thiện nam tử! Tâm cũng như vậy, chẳng thể nói rằng, trụ ở ấm, giới, nhập và cả chẳng trụ nữa. Thọ của trời Vô Tưởng cũng lại như vậy. Ưu bi của Như Lai cũng lại như vậy. Nếu Phật không ưu bi thì sao nói rằng bình đẳng nhìn chúng sinh như La Hầu La? Nếu nói rằng, có ưu bi thì sao lại nói rằng, tính đồng hư không? Này thiện nam tử! Ví như nhà huyễn thuật tuy hóa làm đủ thứ cung điện, sát sinh, nuôi lớn, trói buộc, buông bỏ và hóa làm vàng, bạc, lưu ly… vật báu, rừng rậm, cây cối… nhưng đều không thật tính. Như Lai cũng vậy, thuận theo thế gian, thị hiện ưu bi nhưng không có chân thật. Này thiện nam tử! Như Lai đã vào Ðại Bát Niết Bàn rồi thì sao phải có ưu bi khổ não? Nếu cho là Như Lai vào với Niết Bàn là vô thường thì ông phải biết người đó có ưu bi. Nếu cho là Như Lai chẳng vào Niết Bàn, thường trụ bất biến thì ông phải biết người đó không có ưu bi. Như Lai có ưu bi và cả không ưu bi thì không ai có thể biết được.
Lại nữa, này thiện nam tử! Ví như người thấp có thể biết pháp thấp, chẳng biết pháp trung và pháp trên. Người trung thì biết pháp trung, chẳng biết đến pháp thượng. Người trên (thượng) thì biết pháp Thượng và biết pháp trung, pháp dưới. Thanh Văn, Duyên Giác cũng lại như vậy, biết ngang tầm địa vị của mình. Như Lai chẳng vậy, biết hết tầm địa vị của mình và cả tầm địa vị người khác. Vậy nên Như Lai gọi là Vô Ngại Trí, thị hiện huyễn hóa thuận theo thế gian, phàm phu mắt thịt cho đó là chân thật mà muốn tận biết trí Vô thượng vô ngại của Như Lai thì không có điều này. Có ưu bi hay không ưu bi thì chỉ có Phật mới có thể biết. Do nhân duyên này nên pháp khác có ngã, pháp khác không ngã. Ðó gọi là tính của Uyên ương và Ca Lân Ðề. Lại nữa, này thiện nam tử! Phật pháp giống như chim Uyên ương đi chung. Chim Ca lân đề và chim Uyên ương, nước và mùa hạ đầy tràn lênh láng, chúng chọn lựa chỗ cao cho con mình ở yên ổn mà nuôi dưỡng. Rồi nhiên hậu tùy theo sự yên ổn căn bản mà nó bay đi kiếm ăn. Như Lai ra đời cũng lại như vậy, hóa độ vô lượng chúng sinh khiến cho họ trụ ở Chánh pháp như chim Uyên ương và chim Ca lân đề khi chọn lựa vùng cao để an trí con của mình. Như Lai cũng vậy, khiến cho các chúng sinh… việc làm đã hoàn thành, liền vào với Ðại Bát Niết Bàn. Này thiện nam tử! Ðó gọi là pháp khác là khổ, pháp khác là vui, các hành là khổ, Niết Bàn là vui, là đệ nhất vi diệu phá hoại các hành vậy.
Bồ tát Ca Diếp bạch đức Phật rằng:
– Thưa đức Thế Tôn! Sao gọi là chúng sinh được Niết Bàn thì gọi là Ðệ nhất lạc?
Ðức Phật dạy rằng:
– Này thiện nam tử! Như lời nói của ta, các hành hòa hợp gọi là lão tử.
Cẩn thận không buông lung
Chỗ đó là cam lộ
Chẳng cẩn thận, buông lung
Ðó gọi là câu chết (tử cú)
Nếu người chẳng buông lung
Thì được chỗ bất tử.
Như người ấy buông lung
Thường đi vào tử lộ (đường chết).
Nếu buông lung thì gọi là pháp hữu vi. Pháp hữu vi này là đệ nhất khổ. Chẳng buông lung thì gọi là Niết Bàn. Niết Bàn đó thì gọi là cam lộ đệ nhất lạc. Nếu đi theo các hành thì đó gọi là chỗ chết, thọ đệ nhất khổ. Nếu đến Niết Bàn thì gọi là bất tử, thọ tối diệu lạc. Nếu chẳng buông lung thì tuy tập (qua) các hành nhưng đó cũng gọi là thường lạc, chẳng chết, chẳng phá hoại thân. Sao gọi là buông lung? Sao gọi là chẳng buông lung? Chẳng phải Thánh, phàm phu thì gọi phóng dật, pháp thường tử (thường chết). Thánh nhân xuất thế thì chẳng buông lung, không có già chết. Vì sao vậy? Vì vào đến Ðệ nhất thường lạc Niết Bàn. Do ý nghĩa này nên pháp khác là khổ, pháp khác là vui, pháp khác là ngã, pháp khác là Vô ngã. Như người ở tại đất ngước xem hư không, chẳng thấy dấu vết loài chim. Này thiện nam tử! Chúng sinh cũng vậy, không có thiên nhãn, ở trong phiền não mà chẳng tự thấy có Như Lai tính. Vậy nên ta nói Vô ngã mật giáo. Sở dĩ vì sao? Vì không thiên nhãn thì chẳng biết Chân ngã mà ngang ngược cho là Ngã. Nhân vào các phiền não đã tạo tác hữu vi tức là vô thường. Vậy nên ta nói rằng, pháp khác là thường, pháp khác là vô thường.
Người tinh tấn dũng kiện
Như ở đỉnh núi cao
Ðất bằng và đồng trống
Thường thấy phàm phu vào
Lên điện Ðại Trí Tuệ
Ðài Vô thượng nhiệm mầu
Ðã tự trừ ưu hoạn
Cũng thấy chúng sinh ưu.
Như Lai đoạn hết vô lượng phiền não, trụ ở núi trí tuệ, thấy các chúng sinh luôn ở trong vô lượng ức phiền não.
Bồ tát Ca Diếp lại bạch đức Phật rằng:
– Thưa đức Thế Tôn! Như lời nói của kệ thì nghĩa đó chẳng vậy. Vì sao vậy? Vì vào Niết Bàn thì không lo, không mừng. Sao gọi là được thăng lên đài điện trí tuệ? Sao lại phải trụ tại đỉnh núi mà thấy chúng sinh?
Ðức Phật dạy rằng:
– Này thiện nam tử! Ðiện trí tuệ tức là Niết Bàn. Không ưu hoạn là gọi Như Lai. Có ưu hoạn là gọi người phàm phu. Vì phàm phu ưu hoạn nên Như Lai không ưu hoạn. Ðỉnh núi Tu Di là gọi Chánh Giải thoát. Siêng tinh tấn là ví cho núi Tu Di không có chuyển động. Ðất là gọi hành hữu vi vậy. Những phàm phu này an trụ ở đất đó mà tạo tác các hành. Người trí tuệ ấy thì gọi là Chánh giác. Lìa khỏi “hữu”, thường trụ nên gọi là Như Lai. Như Lai thương xót nghĩ đến vô lượng chúng sinh thường bị trúng tên độc của các hữu. Vậy nên gọi là Như Lai có ưu bi.
Bồ tát Ca Diếp lại bạch đức Phật rằng:
– Thưa đức Thế Tôn! Nếu giả sử Như Lai có ưu bi thì chẳng được xưng là Ðẳng Chánh Giác!
Ðức Phật bảo ngài Ca Diếp rằng:
– Ðều có nhân duyên! Tùy theo chỗ có chúng sinh ưng thọ giáo mà Như Lai ở trong đó thị hiện thọ sinh. Tuy hiện thọ sinh mà thật ra không sinh. Vậy nên Như Lai gọi là Pháp Thường Trụ như chim Ca lân đề và chim Uyên ương.v.v….
KINH ÐẠI BÁT NIẾT BÀN
– Quyển thứ tám hết –