1
2
3
4
5
6
7
8
9
10
11
12
13
14
15
16
17
18
19
20
21
22
23
24
25
26
27
28
29
30
31
32
33
34
35
36

Quyển thứ ba

4. PHẨM TRƯỜNG THỌ (SỐNG LÂU)

Ðức Phật lại bảo các vị Tỳ kheo rằng:

– Các ông đối với giới luật có điều gì nghi hoặc thì hôm nay cho các ông hỏi tùy thích. Ta sẽ giải nói khiến cho vui lòng các ông! Ta đã tu học bản tính của tất cả các pháp không tịch, tỏ rõ thông đạt. Này Tỳ kheo! Các ông chớ cho là Như Lai chỉ tu bản tính không tịch của các pháp – Ðức Phật lại bảo – Này các Tỳ kheo! Nếu đối với giới luật có điều gì nghi hoặc thì hôm nay đều có thể hỏi!

Các vị Tỳ kheo bạch đức Phật rằng:

– Thưa đức Thế Tôn! Chúng con không có trí tuệ mà có thể hỏi đức Như Lai Ứng Cúng Chánh Biến Tri? Sở dĩ vì sao? Vì cảnh giới của đức Như Lai chẳng thể nghĩ bàn, sở hữu các định chẳng thể nghĩ bàn, lời diễn nói dạy răn chẳng thể nghĩ bàn… Vậy nên chúng con không có trí tuệ mà có thể hỏi đức Như Lai? Thưa đức Thế Tôn! Ví như một ông lão một trăm hai mươi tuổi, thân bị bệnh đã lâu, nằm liệt giường chiếu, chẳng thể trở dậy, khí lực hư liệt, mạng còn không bao lâu. Có một người giàu có nhân có việc sắp phải đi đến địa phương khác, đem một trăm cân vàng gởi cho ông lão đó mà nói rằng: “Tôi nay đi nơi khác, đem vật báu này gởi nhờ ông giữ, hoặc trải qua mười năm hay hai mươi năm, việc xong sẽ trở về. Khi về ông giao lại cho tôi!” Ông lão bệnh này liền nhận sự gởi gắm đó mà ông lão này lại không có người nối dõi. Sau đó chẳng bao lâu bệnh nặng mạng chung, vật đã gởi đều tan mất, tài chủ đi trở về tìm đòi không có. Như vậy kẻ ngu si chẳng biết trù tính chỗ có thể gởi gắm nên khi đi trở về tìm đòi không được. Vì nhân duyên này nên thất thoát của báu. Thưa đức Thế Tôn! Thanh Văn chúng con cũng lại như vậy, tuy nghe đức Như Lai ân cần dạy giới (cấm) nhưng chẳng có thể thọ trì, khiến cho được trụ lâu dài giống như ông lão kia nhận sự ký thác của người khác. Chúng con nay vô trí đối với các giới luật thì sẽ hỏi điều gì đây?

Ðức Phật dạy:

– Này Tỳ kheo! Các ông hôm nay nếu hỏi ta thì có thể lợi ích cho tất cả chúng sinh. Vậy nên ta bảo các ông có những nghi hoặc gì thì các ông cứ mặc lòng mà hỏi!

Các vị Tỳ kheo bạch đức Phật rằng:

– Thưa đức Thế Tôn! Ví như có người năm hai mươi lăm tuổi, trẻ trung đoan chính, có nhiều của báu, vàng bạc, lưu ly… cha mẹ, vợ con, quyến thuộc, thân thích đều còn đủ. Có người đến gởi cho ông ấy vật báu và nói với người ấy rằng: “Tôi có duyên sự sắp đi đến xứ khác, việc xong sẽ trở về, khi trở về ông đưa lại cho tôi”. Lúc đó chàng trai trẻ giữ hộ vật báu đó như vật sở hữu của mình. Người ấy bị bệnh liền bảo với gia thuộc rằng, số kim bảo này là của người khác gởi, nếu họ đến đòi thì đều trả lại hết cho họ. Kẻ trí giỏi biết trù lượng như vậy nên đi trở về đòi vật đều được hết, không mất mát gì. Ðức Thế Tôn cũng vậy, nếu đem pháp bảo phú chúc cho A Nan và các Tỳ kheo thì chẳng được tồn tại lâu dài (cữu trụ). Vì sao vậy? Vì tất cả Thanh Văn và cả Ðại Ca Diếp đều phải vô thường như ông lão kia nhận vật gởi của người khác. Vậy nên đức Thế Tôn nên đem Phật pháp vô thượng phó thác cho các vị Bồ tát. Do các vị Bồ tát giỏi có thể vấn đáp nên pháp bảo như vậy được tồn tại lâu dài hàng vô lượng ngàn đời làm tăng thêm sự lợi an thịnh vượng cho chúng sinh như người trai trẻ kia nhận vật ký gởi của người khác. Do ý nghĩa này nên các vị đại Bồ tát mới có thể hỏi vậy. Trí tuệ của chúng con giống như của con muỗi, con ve thì làm sao có thể thỉnh vấn thâm pháp của đức Như Lai?

Các vị Thanh Văn lặng lẽ mà trụ. Bấy giờ đức Phật khen các vị Tỳ kheo rằng:

– Hay thay! Hay thay! Các ông hoàn thiện được tâm vô lậu, tâm Alahán! Ta cũng từng suy nghĩ về hai cái duyên này nên đem Ðại Thừa giao phó cho các vị Bồ tát để khiến cho diệu pháp trụ lâu dài ở đời.

Bấy giờ, đức Phật bảo tất cả đại chúng rằng:

– Này các thiện nam tử! Các thiện nữ nhân! Thọ mạng của ta chẳng thể xưng lường, biện tài lạc thuyết cũng chẳng thể bàn hết! Các người nên có thể tùy ý hỏi han, hoặc giới (cấm), hoặc qui (về)… lần hai, lần ba cũng lại như vậy…

Lúc bấy giờ, trong chúng có một đồng tử Ðại Bồ tát, chính là dòng họ Bàlamôn của tụ lạc Ðala tên là Ðại Ca Diếp. Do thần lực đức Phật, ông liền đứng dậy, trật áo vai phải, nhiễu quanh trăm ngàn vòng, quì gối phải xuống đất, chắp tay hướng về đức Phật mà bạch đức Phật rằng:

– Thưa đức Thế Tôn! Con hôm nay muốn thỉnh vấn đôi điều, nếu đức Phật cho phép thì con mới dám nói!

Ðức Phật bảo ngài Ca Diếp rằng:

– Như Lai Ứng Cúng Chánh Biến Tri cho ông mặc tình hỏi han! Ta sẽ vì ông giảng nói để đoạn dứt sự nghi hoặc của ông, khiến cho ông hoan hỷ.

Lúc bấy giờ, Bồ tát Ca Diếp lại bạch đức Phật rằng:

– Thưa đức Thế Tôn! Ðức Như Lai thương xót đã rủ lòng hứa cho thì nay con sẽ hỏi. Nhưng trí tuệ sở hữu của con nhỏ nhoi như của con muỗi, con ve mà đạo đức của Như Lai Thế Tôn thì lồng lộng thuần bằng chiên đàn sư tử khó điều phục với chúng chẳng thể hoại làm quyến thuộc. Thân đức Như Lai giống như chơn Kim cương, sắc như lưu ly chân thật khó hoại. Ngài lại được sự vây quanh của biển đại trí tuệ như vậy. Trong chúng hội này, các vị Ðại Bồ tát Mahatát đều thành tựu vô lượng vô biên công đức thâm diệu giống như loài hương tượng. Ở trước những đại chúng như vậy con đâu dám phát vấn. Nhưng vì phải thừa sức thần thông của đức Phật và nhờ uy đức thiện căn của đại chúng, con có đôi điều hỏi han vậy.

Ông liền ở trước đức Phật, dùng kệ hỏi rằng:

Sao gọi được trường thọ

Thân chẳng hoại Kim cương?

Do nhân duyên nào đó

Ðược đại lực vững bền?

Vì sao với Kinh ấy

Ðến bờ kia rốt cùng?

Nguyện Phật mở vi mật

Vì chúng sinh tuyên dương!

Sao gọi được rộng lớn

Vì chúng tạo dừng nương?

Thật chẳng phải La Hán

So cùng La hán bằng?

Ma trời, làm sao biết

Vì chúng tạo khó khăn?

Như Lai, Ba Tuần nói

Làm sao biết mà phân?

Sao gọi các Ðiều ngự

Vui lòng nói Ðế Chân

Chánh thiện thành tựu đủ

Diễn nói bốn đảo điên?

Sao gọi làm thiện nghiệp

Nay đại tiên nói lên?

Sao gọi các Bồ tát

Thấy tánh thấy khó khăn?

Sao gọi giải trọn chữ

Và nghĩa nữa chữ trên?

Sao gọi chung thánh hạnh

Như chim Ca lân tần (già)?

Sao gọi là Nhật, Nguyệt

Thái bạch cùng Tuế tinh?

Sao gọi tâm chưa phát

Mà Bồ tát là tên?

Sao gọi ở đại chúng

Mà được sở úy không!

Như vàng Diêm phù đó

Không thể nói lỗi lầm?

Sao gọi ở cõi trược

Chẳng bẩn, như hoa sen?

Sao ở với phiền não

Mà chẳng nhiễm não phiền?

Như thầy thuốc trị bệnh

Chẳng bị nhiễm bệnh luôn?

Trong biển cả sinh tử

Sao làm người lái thuyền?

Sao gọi bỏ sinh tử

Như rắn lột da xong?

Sao gọi quán Tam bảo

Giống như cây ý thiên?

Tam Bảo nếu không tánh

Sao mà được nói lên?

Giống như chưa sinh lạc

Sao thọ lạc gọi tên?

Sao gọi các Bồ tát

Ðược chúng chẳng hoại tan?

Sao gọi sống mù tối

Mà làm mắt dẫn đường?

Sao nhiều đầu thị hiện?

Nguyện Ðại Tiên nói lên!

Sao gọi người nói pháp

Như trăng mới lớn thêm?

Sao gọi lại thị hiện

Rốt ráo đến Niết Bàn?

Sao gọi người dũng tiến

Bầy đường ma, thiên, nhân?

Sao gọi biết pháp tánh

Mà thọ pháp lạc luôn?

Sao gọi các Bồ tát

Xa lià mọi bệnh thân?

Sao gọi vì sinh chúng

Pháp bí mật tuyên dương?

Sao gọi nói cùng tột

Và cả chẳng rốt cùng?

Như đoạn lưới nghi hoặc

Sao gọi bất định thuyết?

Sao gọi mà được gần

Ðạo Tối Thắng Vô thượng?

Con nay thỉnh Thế Tôn

Vì các vị Bồ tát

Nguyện xin ngài nói lên

Hạnh thậm thâm vi diệu…

Trong mọi pháp thế gian

Ðều có tánh an lạc.

Nguyện xin đấng Ðại Tiên

Vì con phân biệt nói!

Ðấng y chỉ (của) chúng sinh!

Lưỡng Túc Tôn diệu dược!

Các ấm muốn hỏi han

Mà con không trí tuệ

Các Bồ tát tinh cần

Cũng lại chẳng thể biết

Cảnh giới quá thậm thâm

Như vậy của chư Phật.

Lúc bấy giờ, đức Phật khen Bồ tát Ca Diếp rằng:

– Hay thay! Hay thay! Này thiện nam tử! Ông nay chưa được Nhất Thiết Chủng Trí, ta đã được rồi. Nhưng ông đã hỏi mật tạng thậm thâm như sự hỏi han của Nhất Thiết Trí không khác. Này thiện nam tử! Ta ngồi dưới cây Bồ Ðề Ðạo Tràng, khi mới thành Chánh Giác, bấy giờ, vô lượng atăngkỳ hằng hà sa số thế giới chư Phật, có các vị Bồ tát cũng hỏi ta ý nghĩa thậm thâm đó. Nhưng sự hỏi công đức câu nghĩa ấy cũng đều ngang bằng như vậy không có khác. Hỏi như vậy thì có thể lợi ích cho vô lượng chúng sinh.

Lúc bấy giờ, Bồ tát Ca Diếp bạch đức Phật rằng:

– Thưa đức Thế Tôn! Con không có trí lực để có thể hỏi đức Như Lai ý nghĩa thậm thâm như vậy. Thưa đức Thế Tôn! Ví như con muỗi, con ve chẳng thể bay qua bờ kia của biển cả, cùng khắp hư không. Con cũng như vậy, chẳng thể hỏi han ý nghĩa thậm thâm của biển cả trí tuệ và hư không pháp tính như vậy của đức Như Lai. Thưa đức Thế Tôn! Ví như ngọc sáng trong vòng hoa cài tóc của vị quốc vương giao phó cho Ðiển Tạng Thần (người bề tôi quản lý kho tàng của vua). Tạng thần được rồi đội trên đầu, cung kính mà tăng thêm sự thủ hộ. Con cũng như vậy, đội lên đầu cung kính, tăng thêm thủ hộ sự thuyết giảng ý nghĩa thậm thâm Phương Ðẳng của đức Như Lai. Vì sao vậy? Vì khiến cho con rộng được trí tuệ sâu sắc.

Lúc bấy giờ, đức Phật bảo Bồ tát Ca Diếp rằng:

– Này thiện nam tử! Lắng nghe! Lắng nghe! Ta sẽ vì ông giảng nói về nghiệp trường thọ sở đắc của Như Lai. Bồ tát do nhân duyên nghiệp đó mà được trường thọ. Vậy nên ông hãy chí tâm lắng nghe. Nếu nghiệp có thể là nhân của Bồ Ðề thì cần phải thành tâm thính thọ ý nghĩa này. Ðã thính thọ rồi thì chuyển vì người khác giảng nói. Này thiện nam tử! Ta do tu tập nghiệp như vậy nên được Vô Thượng Chánh Ðẳng Chánh Giác, hôm nay ta lại vì người rộng nói ý nghĩa đó. Này thiện nam tử! Ví như vương tử phạm tội bị nhốt vào ngục. Nhà vua rất thương xót ái niệm con nên tự mình quay xe trở lại chỗ giam giữ ấy. Bồ tát cũng vậy, muốn được trưởng thọ cần phải hộ niệm tất cả chúng sinh, đồng tưởng họ là con mà sinh ra đại từ, đại bi, đại hỷ, đại xả, trao cho giới chẳng sát sinh, dạy tu tập thiện pháp. Bồ tát cũng sẽ yên dừng tất cả chúng sinh ở năm giới, mười thiện, lại vào địa ngục, ngã quỉ, súc sinh, atula.v.v… tất cả các đường để cứu vớt những chúng sinh khổ não ở trong đó. Bồ tát giải thoát người chưa giải thoát, độ người chưa độ, người chưa Niết Bàn khiến cho được Niết Bàn, an ủi tất cả những kẻ bị khủng bố. Do nhân duyên những nghiệp như vậy nên Bồ tát được thọ mạng lâu dài, đối với các trí tuệ mà được tự tại, tùy theo chỗ mà thọ chung sinh lên cõi trời.

Lúc bấy giờ, Bồ tát Ca Diếp lại bạch đức Phật rằng: Thưa đức Thế Tôn! Ðại Bồ tát nhìn chúng sinh tưởng đồng với con là nghĩa sâu kín con chưa có thể giải! Thưa đức Thế Tôn! Ðức Như Lai chẳng nên nói rằng, Bồ tát đối với các chúng sinh, tu tâm bình đẳng, tưởng đồng với con. Sở dĩ vì sao? Vì ở trong Phật pháp có người phá giới, người tạo nghịch tội, người hủy báng chánh pháp thì làm sao sẽ đối với những người như thế mà tưởng đồng như con vậy?

Ðức Phật dạy rằng:

– Này Ca Diếp! Ðúng vậy! Ðúng vậy! ta đối với chúng sinh thật sự tưởng như con, như La Hầu La.

Bồ tát Ca Diếp lại bạch đức Phật rằng:

– Thưa đức Thế Tôn! Thuở xưa, ngày mười lăm, khi Tăng bố tát, đã từng ở trong chúng cụ túc giới thanh tịnh, có một đồng tử chẳng khéo tu tập nghiệp thân miệng ý, ẩn tại chỗ vách ngăn, trộm nghe nói giới. Thần lực sĩ Mật Tích thừa thần lực đức Phật, dùng chày kim cương đánh cho tan nát như vi trần. Thưa đức Thế Tôn! Thần Kim cương đó rất là bạo ác mới có thể đoạn tuyệt mạng căn của đồng tử này thì sao gọi là đức Như Lai nhìn các chúng sinh tưởng đồng với con như La Hầu La được?

Ðức Phật bảo rằng:

– Này Ca Diếp! Ông nay chẳng nên nói lời như vậy. Vì đồng tử đó tức là hóa nhân chẳng phải chân thật đâu! Vì muốn xua đuổi kẻ phá giới hủy pháp ra khỏi chúng nên thần Kim Cương Mật Tích thị hiện ra hóa nhân này vậy. Này Ca Diếp! Kẻ hủy báng Chánh pháp và Nhất xiển đề, hoặc có kẻ sát sanh, cho đến tà kiến và cả kẻ phạm cấm giới thì ta đối với những người này đều phát sinh lòng từ bi, tưởng đồng với con như La Hầu La. Này thiện nam tử! Ví như các quần thần của quốc vương, có người phạm vương pháp thì tùy theo tội mà tru lục chẳng vứt bỏ. Như Lai Thế Tôn chẳng như vậy, với người hủy pháp thì cho yết ma xua đuổi, yết ma quở trách, yết ma vứt bỏ, yết ma cử tội, yết ma chẳng thể thấy, yết ma diệt, yết ma chưa bỏ ác kiến… Này thiện nam tử! Như Lai sở dĩ cho người hủy báng pháp làm yết ma hàng phục như vậy.v.v… là vì muốn bày những người làm ác thấy có quả báo. Này thiện nam tử! Ông phải biết rằng, Như Lai liền thí cho chúng sinh ác sự không bố úy, hoặc phóng ra một ánh sáng, hoặc hai, hoặc ba mà nếu có người gặp được thì đều khiến cho lìa xa tất cả những ác. Như Lai hôm nay có đủ vô lượng thế lực như vậy. Này thiện nam tử! Chưa thể thấy pháp mà ông muốn thấy thì hôm nay ta sẽ vì ông nói lên tướng mạo của pháp ấy. Sau khi ta vào Niết Bàn tùy theo phương diện ấy có vị Tỳ kheo trì giới uy nghi đầy đủ, hộ trì chánh pháp thấy kẻ hoại pháp liền có thể xua đuổi, quở trách, sửa trị. Ông phải biết người đó được phước không lường, chẳng thể kể xiết. Này thiện nam tử! Ví như có vị vua chuyên làm việc bạo ác, gặp phải bệnh nặng. Có vị vua của nước bên cạnh nghe danh tiếng ấy, dấy binh đem đến muốn tiêu diệt. Lúc đó, vị vua bệnh không thế lực nên mới kinh sợ mà thay lòng tu thiện. Vị vua của nước bên cạnh đó được phước không lường. Tỳ kheo trì pháp cũng lại như vậy, xua đuổi quở trách người phá hoại pháp, khiến cho họ làm thiện pháp, được phước không lường. Này thiện nam tử! Ví như chỗ ở của vị trưởng giả, ruộng đất nhà cửa sinh ra những cây độc hại. Ông trưởng giả biết rồi liền chặt phá khiến cho chúng tận diệt. Lại như trên đầu người trai trẻ sinh ra tóc bạc, tự thẹn mà cạo bỏ chẳng cho sinh trưởng. Tỳ kheo trì pháp cũng lại như vậy, thấy có người phá giới, hoại chánh pháp liền nên xua đuổi, quở trách, cử xử. Nếu thiện Tỳ kheo thấy người hoại pháp thì đặt để chẳng xua đuổi, quở trách, cử xử thì phải biết người đó là oán địch trong Phật pháp; nếu có thể xua đuổi, quở trách, cử xử thì chính là Thanh Văn chơn chánh đệ tử của ta vậy.

Bồ tát Ca Diếp lại bạch đức Phật rằng:

– Thưa đức Thế Tôn! Như lời nói của đức Phật thì chẳng bình đẳng nhìn tất cả chúng sinh, tưởng đồng với con như La Hầu La! Thưa đức Thế Tôn! Nếu có một người dùng dao hại đức Phật. Lại có một người dùng hương chiên đàn xoa mình đức Phật. Ðức Phật đối với hai người này nếu sinh lòng bình đẳng thì sao lại nói rằng, phải trị kẻ hủy cấm. Còn nếu trị người hủy cấm thì lời nói này không đúng!

Ðức Phật bảo ngài Ca Diếp:

– Này thiện nam tử! Ví như quốc vương, đại thần, tể tướng sinh dưỡng các con nhan mạo đoan chánh sáng suốt thông tuệ, rồi đem hoặc hai, ba, bốn đứa giao phó cho vị thầy giáo nghiêm khắc mà nói rằng: “Ngài có thể vì tôi dạy bảo các con về oai nghi, lễ tiết, kỹ nghệ, thư số… đều khiến cho thành tựu. Bốn đứa con của tôi đến thọ học với ngài, giả sử ba đứa bị đánh mà chết, dù còn lại một đứa, ngài nhất định phải khổ trị, phải khiến cho nó thành tựu. Tuy chết mất ba đứa con, nhưng tôi nhất định chẳng hối hận”. Này Ca Diếp! Người cha và vị thầy đó có bị tội sát sinh không?

– Thưa đức Thế Tôn! Chẳng phạm vậy!

– Vì sao vậy? Vì do ái niệm nên vì muốn thành tựu, không có lòng ác. Dạy bảo như vậy được phước không lường. Này thiện nam tử! Như Lai cũng vậy, nhìn kẻ hoại pháp bình đẳng như con một. Như Lai hôm nay đem chánh pháp vô thượng phú chúc các vua, đại thần, tể tướng, Tỳ kheo, Tỳ kheo ni, Ưu bà tắc, Ưu bà di. Những quốc vương… và bốn bộ chúng này cần phải khuyên bảo khích lệ những người học, khiến cho Giới, Ðịnh và Trí tuệ của họ được tăng lên. Nếu có người chẳng học ba phẩm pháp này, lười biếng, phá giới, hủy báng chánh pháp thì quốc vương, đại thần, bốn bộ chúng cần phải khổ trị họ. Này thiện nam tử! Các quốc vương và bốn bộ chúng đó sẽ có tội chăng?

– Thưa đức Thế Tôn! Họ chẳng có tội!

– Này thiện nam tử! Các quốc vương và bốn bộ chúng đó còn không có tội huống gì là Như Lai! Này thiện nam tử! Như Lai đã khéo tu bình đẳng như vậy, đối với các chúng sinh, tưởng đồng là con một. Người tu như vậy thì đó gọi là Bồ tát tu tâm bình đẳng, đối với các chúng sinh tưởng đồng như con một. Này thiện nam tử! Bồ tát tu tập nghiệp này như vậy thì liền được trường thọ, cũng có thể giỏi biết sự việc đời trước.

Bồ tát Ca Diếp lại bạch đức Phật rằng:

– Thưa đức Thế Tôn! Như lời nói của đức Phật, Bồ tát nếu có tu tâm bình đẳng, nhìn các chúng sinh tưởng đồng với con mình thì liền được trường thọ. Ðức Như Lai chẳng nên nói lời như vậy. Vì sao vậy? Vì như người biết pháp có thể nói đủ thứ pháp hiếu thuận, nhưng trở về đến nhà thì dùng những ngói, đá… ném, đánh cha mẹ mà cha mẹ đó chính là ruộng phước phì nhiêu, nhiều sự lợi ích rất khó tao ngộ. Ðáng lẽ ra họ nên ưa thích cúng dường, ngược lại sinh lòng não hại cha mẹ. Người biết pháp đó nói và làm trái nhau. Lời nói của đức Như Lai cũng lại như vậy. Bồ tát tu tập tâm bình đẳng, đối với chúng sinh tưởng đồng như con nên được trường thọ, giỏi biết túc mạng (mạng đời trước), thường trụ ở đời, không có biến dị. Hôm nay đức Thế Tôn vì nhân duyên gì mà thọ mạng cực ngắn đồng với nhân gian vậy? Ðức Như Lai sẽ không đối với chúng sinh phát sinh tư tưởng oán ghét? Thưa đức Thế Tôn! Ngày xưa ngài tạo tác nghiệp ác gì? Giết hại bao nhiêu mạng? Mà bị đoản mạng, chẳng đầy trăm năm?

Ðức Phật bảo ngài Ca Diếp rằng:

– Này thiện nam tử! Ông nay vì nhân duyên gì mà ở trước Như Lai nói lên lời thô lậu đó? Sự trường thọ của Như Lai là tối thượng tối thắng ở trong các thọ! Pháp “Thường” sở đắc của Như Lai là tối thắng đệ nhất ở trong các “Thường”.

Bồ tát Ca Diếp lại bạch đức Phật rằng:

– Thưa đức Thế Tôn! Sao gọi là Như Lai được thọ mạng không lường?

Ðức Phật bảo ngài Ca Diếp:

– Này thiện nam tử! Như tám dòng sông lớn, một tên là Hằng Hà, hai tên là Diêm Ma La, ba tên là Tát La, bốn tên là A Di La Bạt Ðề, năm tên là Ma Ha, sáu tên là Tân Ðầu, bảy tên là Bác Xoa, tám tên là Tất Ðà. Tám dòng sông lớn đó và những dồng sông nhỏ đều chảy vào biển cả. Này Ca Diếp! Như vậy tất cả dòng sông lớn thọ mạng trong người, trên trời, dưới đất và hư không đều vào trong biển thọ mạng của Như Lai. Vậy nên thọ mạng của Như Lai là vô lượng. Lại nữa, nay Ca Diếp! Ví như ao A Nậu Ðạt truyền nước cho bốn dòng sông lớn. Như Lai cũng vậy cho ra tất cả thọ mạng. Này Ca Diếp! Ví như trong tất cả các pháp thường thì hư không là đệ nhất. Như Lai cũng vậy, ở trong các pháp thường là tối thắng đệ nhất. Này Ca Diếp! Ví như các thuốc thì đề hồ là đệ nhất. Như Lai cũng vậy, ở trong chúng sinh, là thọ mạng đệ nhất.

Bồ tát Ca Diếp lại bạch đức Phật rằng:

– Thưa đức Thế Tôn! Thọ mạng của đức Như Lai như vậy thì nên trụ một kiếp hoặc giảm một kiếp, thường tuyên nói diệu pháp như tuông mưa lớn.

– Này Ca Diếp! Ông nay chẳng nên ở chỗ Như Lai mà sinh ra tư tưởng diệt tận. Này Ca Diếp! Nếu có Tỳ kheo, Tỳ kheo ni, Ưu bà tắc, Ưu bà di cho đến tiên nhân ngũ thần thông của ngoại đạo được tự tại, hoặc trụ một kiếp hay giảm một kiếp, đi kinh hành trong hư không, ngồi nằm tự tại, hông trái phát ra lửa, hông phải tuông ra nước, thân sinh ra khói lửa giống như đám lửa, nếu muốn trụ thọ thì có thể được như ý, ở trong thọ mạng dài, ngắn tự tại. Như vậy tiên nhân ngũ thông mà còn được thần lực tùy ý như thế. Huống gì là Như Lai đối với tất cả pháp được sức tự tại mà phải chẳng thể trụ thọ mạng nửa kiếp, hoặc một kiếp, hoặc trăm kiếp, hoặc trăm ngàn kiếp, hoặc vô lượng kiếp ư? Do ý nghĩa này nên ông phải biết rằng, Như Lai chính là pháp thường trụ, pháp chẳng biến dị. Thân này của Như Lai là thân biến hóa, chẳng phải thân tạp thực, vì hóa độ chúng sinh mà thị hiện đồng với cây độc (độc thọ). Vậy nên Như Lai hiện xả thân vào với Niết Bàn. Này Ca Diếp! Ông phải biết, Phật chính là pháp “Thường”, pháp chẳng biến dị! Các ông ở trong Ðệ Nhất Nghĩa đó nên siêng năng tinh tấn, nhất tâm tu tập. Ðã tu tập rồi thì hãy rộng vì người giảng nói!

Lúc bấy giờ, Bồ tát Ca Diếp bạch đức Phật rằng:

– Thưa đức Thế Tôn! Pháp xuất thế cùng với pháp thế gian có gì sai biệt? Như lời nói của đức Phật, Phật là pháp thường, pháp chẳng biến dị. Thế gian cũng nói, Phạm thiên là thường, Tự Tại Thiên là thường, không có biến dị, Ngã thường, tính thường, vi trần cũng thường. Nếu nói Như Lai là pháp thường thì vì sao đức Như Lai chẳng thường hiện vậy? Nếu chẳng thường hiện thì có gì sai khác? Vì sao vậy? Vì từ Phạm thiên cho đến thế tính của vi trần cũng chẳng hiện vậy!

Ðức Phật bảo ngài Ca Diếp:

– Ví như ông trưởng giả có nhiều những trâu, sắc vóc tuy đủ thứ nhưng đồng chung một bầy. Ông giao phó cho người chăn thả, sai đuổi đi tìm nước cỏ, chỉ làm đề hộ chẳng cần cao sữa. Người chăn trâu đó chăn dắt rồi tự sinh sống. Ông trưởng giả mạng chung thì những con trâu sở hữu đều bị bọn giặc cướp lấy. Bọn giặc được trâu rồi, không có phụ nữ, liền tự chăn dắt lấy được sữa mà ăn. Lúc bấy giờ, bọn cướp đều nói với nhau rằng: “Ông đại trưởng giả kia nuôi dưỡng trâu này, chẳng cầu lấy cao sữa chỉ vì lấy đề hồ. Chúng ta hôm nay phải thiết lập phương cách gì để mà được nó đây?” Luận về đề hồ thì gọi là thượng vị đệ nhất của thế gian mà chúng ta không có đồ chứa. Giả sử có được sữa thì không có chỗ để chứa đặt”. Họ lại nói với nhau rằng: “Có túi da mới có thể chứa đựng được. Tuy có chỗ đựng mà chẳng biết khuấy trộn thì nước uống còn khó được huống là lại sinh ra váng sữa (tô)”. Bấy giờ, các tên giặc lấy đề hồ cho thêm nước vào đó, rồi vì nước nhiều nên cao sữa, đề hồ tất cả đều mất. Kẻ phàm phu cũng vậy, tuy có thiện pháp nhưng đều chính là phần còn lại của chánh pháp Như Lai. Vì sao vậy? Vì sau khi đức Như Lai vào Niết Bàn, có kẻ trộm lấy thiện pháp để lại của đức Như Lai, hoặc Giới, Ðịnh, Tuệ như bọn giặc kia cướp lấy bầy trâu. Những người phàm phu tuy lại được Giới, Ðịnh, Trí tuệ đó nhưng không có phương tiện nên chẳng thể giải thoát. Do ý nghĩa này nên chẳng thể thu được thường giới, thường định, thường tuệ giải thoát như bọn giặc kia chẳng biết phương tiện nên quên mất cách làm đề hồ. Lại như bọn giặc làm đề hồ mà gia thêm nước vào đó. Kẻ phàm phu cũng vậy, vì giải thoát nên nói ngã, chúng sinh, thọ mạng, sĩ phu, Phạm thiên, Tự Tại thiên, vi trần, thế tánh, giới, định, trí tuệ và cùng giải thoát, phi tưởng, phi phi tưởng thiên… tức là Niết Bàn thì thật sự cũng chẳng được Niết Bàn giải thoát, như bọn giặc kia chẳng được đề hồ. Các phàm phu này có chút ít phạm hạnh, cúng dường cha mẹ. Nhờ nhân duyên đó được sinh lên trời, hưởng thọ chút ít an vui như bọn giặc kia được sữa gia thêm nước. Thật sự những phàm phu này chẳng biết nhân tu chút ít phạm hạnh, cúng dường cha mẹ được sinh lên trời. Những phàm phu này lại chẳng thể biết Giới, Ðịnh, Trí tuệ, qui y Tam Bảo. Do họ chẳng biết nên nói Thường – Lạc – Ngã – Tịnh. Tuy họ nói thế mà thật sự chẳng biết gì cả. Vậy nên Như Lai sau khi ra đời mới vì họ diễn nói Thường – Lạc – Ngã – Tịnh. Như vua Chuyển Luân xuất hiện ở đời, nhờ sức phước đức nên bọn giặc lui tan, trâu không tổn hại mạng. Vua Chuyển Luân liền đem các con trâu giao phó cho một người chăn có nhiều phương tiện khéo léo. Người chăn có phương tiện liền được đề hồ. Nhờ đề hồ nên tất cả chúng sinh không có hoạn khổ. Khi vua pháp Chuyển Luân Thánh xuất hiện ở đời, những người phàm phu chẳng thể diễn nói Giới – Ðịnh – Tuệ liền bị xả bỏ như bọn giặc lui tan. Bấy giờ, Như Lai khéo nói về thế pháp và xuất thế pháp vì chúng sinh nên khiến cho các vị Bồ tát tùy nghi diễn nói. Ðại Bồ tát đã được đề hồ thì lại khiến cho vô lượng vô biên chúng sinh đều được vị pháp cam lộ vô thượng. Cái gọi là Thường – Lạc – Ngã – Tịnh của Như Lai là do ý nghĩa này vậy. Này thiện nam tử! Như Lai là Pháp thường, pháp chẳng biến dị, chẳng phải như người ngu phàm phu của thế gian gọi Phạm thiên.v.v… là pháp thường vậy. Pháp thường này chủ yếu nói lên là Như Lai chẳng phải là pháp nào khác. Này Ca Diếp! Ông cần phải biết thân của Như Lai như vậy! Này Ca Diếp! Các thiện nam tử, thiện nữ nhân thường phải buộc lòng mình tu hai chữ này: Phật là thường trụ! Này Ca Diếp! Nếu có thiện nam tử, thiện nữ nhân tu hai chữ này (Thường trụ) thì phải biết rằng, người này theo sở hạnh của ta, đến được chỗ đến của ta! Này thiện nam tử! Nếu có người tu tập hai chữ như vậy vì diệt tướng thì ông phải biết rằng, Như Lai đối với người ấy sẽ vì họ vào Niết Bàn. Này thiện nam tử! Nghĩa Niết Bàn tức là pháp tánh của các đức Phật vậy.

Bồ tát Ca Diếp bạch đức Phật rằng:

– Thưa đức Thế Tôn! Pháp tánh của Phật, nghĩa ấy thế nào? Thưa đức Thế Tôn! Con nay muốn biết nghĩa của pháp tánh! Nguyện xin đức Như Lai thương xót giảng nói rộng rãi cho! Bàn về pháp tánh tức là xả thân. Xả thân thì gọi là không sở hữu. Nếu thân không sở hữu thì làm sao tồn tại? Nếu thân tồn tại thì sao gọi rằng thân có pháp tánh? Thân có pháp tánh thì làm sao tồn tại được? Con nay làm sao biết được nghĩa này?

Ðức Phật bảo Bồ tát Ca Diếp rằng:

– Này thiện nam tử! Ông này chẳng nên nói lời như vậy! Diệt là pháp tánh! Bàn về pháp tánh thì không có diệt vậy. Này thiện nam tử! Ví như trời Vô Tưởng thành tựu sắc ấm mà không sắc tưởng thì chẳng nên hỏi rằng, những trời đó làm sao mà trụ vui sướng thọ lạc? Làm sao mà hành tưởng? làm sao mà thấy nghe? Này thiện nam tử! Cảnh giới của Như Lai chẳng phải là điều hiểu biết của Thanh Văn, Duyên Giác. Này thiện nam tử! Ông chẳng nên nói rằng, thân Như Lai là pháp diệt vậy. Này thiện nam tử! Pháp Diệt của Như Lai là cảnh giới của Phật, chẳng phải là chỗ theo kịp của các Thanh Văn, Duyên Giác. Này thiện nam tử! Ông nay chẳng nên nghĩ ngợi Như Lai trụ ở chỗ nào? Hành chỗ nào? Thấy chỗ nào? Vui chỗ nào? Này thiện nam tử! Nghĩa như vậy cũng chẳng phải là điều biết của các ông! Và pháp thân của chư Phật, đủ thứ phương tiện chẳng thể nghĩ bàn.

Lại nữa, này thiện nam tử! Ông cần phải tu tập Phật, Pháp và Tăng mà tác khởi thường tưởng. Ba pháp đó không có dị tưởng (tưởng khác), không vô thường tưởng, không biến dị tưởng. Nếu người tu dị tưởng đối với ba pháp thì ông phải biết là nhóm người đó tam qui thanh tịnh thì không chỗ nương sở hữu cấm giới đều chẳng đầy đủ, nhất định chẳng thể chứng quả Thanh Văn, Duyên Giác, Bồ Ðề. Nếu người có thể đối với sự chẳng nghĩ bàn này mà tu thường tưởng thì có chỗ về. Này thiện nam tử! Ví như nhân cây thì có bóng cây, Như Lai cũng vậy, có thường pháp nên có qui y, chẳng phải là vô thường. Nếu nói rằng, Như Lai là vô thường thì Như Lai chẳng phải là chỗ qui y của Chư thiên và người đời.

Bồ tát Ca Diếp bạch đức Phật rằng:

– Thưa đức Thế Tôn! Ví như trong tối có cây không bóng!

– Này Ca Diếp! Ông chẳng nên nói rằng, có cây không bóng, chỉ chẳng phải sự thấy của nhục nhãn vậy. Này thiện nam tử! Như Lai cũng vậy, tính ấy thường trụ, là chẳng biến dị, không có mắt trí tuệ thì chẳng thể được thấy. Như trong tối kia chẳng thấy bóng cây. Người phàm phu, sau khi Phật diệt độ, nói rằng Như Lai là vô thường cũng lại như vậy, nếu nói Như Lai khác Pháp và Tăng thì chẳng thể thành ba chỗ qui y, như cha mẹ của ông mỗi mỗi đều khác vậy, nên khiến cho họ vô thường!

Bồ tát Ca Diếp lại bạch đức Phật rằng:

– Thưa đức Thế Tôn! Con từ nay bắt đầu sẽ dùng Phật, Pháp, chúng Tăng, ba việc thường trụ, mở mang giác ngộ cha mẹ, cho đến bảy đời cha mẹ đều khiến cho họ phụng trì. Rất lạ! Thưa đức Thế Tôn! Con nay sẽ học sự chẳng thể nghĩ bàn của Như Lai, Pháp và Tăng. Con đã tự học rồi cũng sẽ vì người giảng nói rộng rãi ý nghĩa này. Nếu có những người chẳng thể tín thọ thì phải biết là bọn người đó tu lâu vô thường. Những người như vậy con sẽ vì họ mà tạo tác sương mù, mưa đá.

Lúc bấy giờ, đức Phật khen Bồ tát Ca Diếp rằng:

– Hay thay! Hay thay! Ông nay giỏi có thể hộ trì Chánh pháp. Hộ pháp như vậy là chẳng dối người. Do nghiệp duyên lành chẳng dối người mà được trường thọ, giỏi biết túc mạng.

5. PHẨM THÂN KIM CƯƠNG

Lúc bấy giờ, đức Thế Tôn lại bảo ngài Ca Diếp rằng:

– Này thiện nam tử! Thân Như Lai là thân thường trụ, thân chẳng hoại, thân kim Cương, chẳng phải là thân tạp thực, tức là pháp thân!

Ngài Ca Diếp Bồ tát bạch đức Phật rằng:

– Thưa đức Thế Tôn! Như lời nói của đức Phật, những thân như vậy con đều chẳng thấy mà con chỉ thấy thân tạp thực, bụi đất, phá hoại vô thường.v.v… Vì sao vậy? Vì Như Lai hôm nay sẽ vào Niết Bàn vậy!

Ðức Phật bảo ngài Ca Diếp:

– Ông nay chớ gọi thân Như Lai chẳng bền, có thể hoại như thân của phàm phu! Này thiện nam tử! Nay ông phải biết là, thân Như Lai vô lượng ức kiếp bền chắc khó hoại, chẳng phải thân của người trời, chẳng phải thân khủng bố, chẳng phải thân tạp thực. Thân Như Lai chẳng phải là thân, thân này chẳng sinh, chẳng diệt, chẳng tập, chẳng tu, vô lượng vô biên, không có dấu chân, không biết, không hình, rốt ráo thanh tịnh, không có lay động, không thọ, không hành, chẳng trụ, chẳng tác, không vị (mùi vị), không tạp,chẳng phải là hữu vi, chẳng phải nghiệp, chẳng phải quả, chẳng phải hành, chẳng phải diệt, chẳng phải tâm, chẳng phải số, chẳng thể nghĩ bàn, thường trụ chẳng thể bàn, vô thức lìa tâm cũng chẳng lìa khỏi tâm. Tâm ấy bình đẳng không có, cũng có, không có đi lại mà cũng đi lại, chẳng phá, chẳng hoại, chẳng đoạn, chẳng tuyệt, chẳng sinh ra, chẳng diệt mất, chẳng chủ, cũng là chủ, chẳng phải có, chẳng phải không, chẳng phải giác, chẳng phải quán, chẳng phải chữ, chẳng phải chẳng chữ, chẳng phải định, chẳng phải chẳng định, chẳng thể thấy mà thấy tỏ rõ, không xứ cũng xứ (chỗ), không nhà cũng nhà, không tối, không sáng, không có tịch tịnh mà cũng tịch tịnh, là không sở hữu, chẳng thọ, chẳng thí, thanh tịnh vô cấu, không tranh, đoạn tranh, trụ không chỗ trụ, chẳng thủ, chẳng đọa, chẳng phải pháp, chẳng phải phi pháp, chẳng phải phước điền, chẳng phải phi phước điền, vô tận chẳng tận, lìa tất cả tận, là không lìa khỏi không, tuy chẳng thường trụ mà chẳng phải niệm niệm diệt, không có vẩn đục, không chữ, lìa khỏi chữ, chẳng phải tiếng, chẳng phải nói, cũng chẳng phải tu tập, chẳng phải xưng, chẳng phải lường, chẳng phải một, chẳng phải khác, chẳng phải tượng, chẳng phải tướng mà các tướng trang nghiêm, chẳng phải dũng, chẳng phải úy (sợ), không tịch chẳng tịch, không nhiệt chẳng nhiệt (nóng), chẳng thể nhìn thấy, không có tướng mạo. Như Lai độ thoát tất cả chúng sinh, không độ thoát nên có thể giải thoát chúng sinh, không có giải nên giác liễu chúng sinh, không giác liễu nên nói pháp như thật, không có hai nên chẳng thể lượng vô đẳng đẳng, bằng phẳng như hư không, không có hình mạo, đồng với tánh vô sanh, chẳng đoạn, chẳng thường, thường hành Nhất thừa, chúng sinh thấy ba (Tam Bảo?), chẳng thoái, chẳng chuyển, đoạn tất cả kết, chẳng chiến, chẳng xúc (chạm), chẳng phải tánh trụ tánh, chẳng phải hợp, chẳng phải tan, chẳng phải dài, chẳng phải ngắn, chẳng phải tròn, chẳng phải vuông, chẳng phải ấm, nhập, giới cũng là ấm, nhập, giới, chẳng phải tăng, chẳng phải tổn, chẳng phải thắng, chẳng phải phụ… Thân Như Lai thành tựu vô lượng công đức như vậy không có ai biết, không ai chẳng biết, không có ai thấy, không ai chẳng thấy, chẳng phải hữu vi, chẳng phải vô vi, chẳng phải đời, chẳng phải chẳng đời (thế), chẳng phải tác, chẳng phải chẳng tác, chẳng phải nương, chẳng phải chẳng nương (y), chẳng phải bốn đại, chẳng phải chẳng bốn đại, chẳng phải nhân, chẳng phải chẳng nhân, chẳng phải chúng sinh, chẳng phải chẳng chúng sinh, chẳng phải Samôn, chẳng phải Bàlamôn chính là sư tử là đại sư tử, chẳng phải thân chẳng phải chẳng thân, chẳng thể tuyên nói trừ một pháp tướng chẳng thể tính toán, khi bát Niết Bàn thì chẳng bát Niết Bàn. Pháp thân Như Lai đều thành tựu vô lượng công đức vi diệu như vậy. Này Ca Diếp! Chỉ có Như Lai mới biết tướng này, chẳng phải điều biết của các Thanh Văn, Duyên Giác. Này Ca Diếp! Thân Như Lai thành tựu những công đức như vậy, chẳng phải là thân do tạp thực nuôi lớn! Này Ca Diếp! Chân thân Như Lai công đức như vậy thì làm sao lại bị các bệnh hoạn, khổ nguy dễ tan vỡ, chẳng bền chắc như đồ đất thô (chưa nung) ư? Này Ca Diếp! Sở dĩ Như Lai thị hiện bệnh khổ là vì muốn điều phục các chúng sinh vậy. Này thiện nam tử! Nay ông phải biết rằng, thân Như Lai tức là thân Kim cương. Từ nay ông thường phải chuyên tâm suy nghĩ về ý nghĩa này! Ông chớ nghĩ là thân tạp thực và cũng phải vì người nói thân Như Lai tức là pháp thân!

Bồ tát Ca Diếp bạch đức Phật rằng:

– Thưa đức Thế Tôn! Ðức Như Lai thành tựu công đức như vậy thì làm sao thân ngài sẽ có bệnh khổ vô thường phá hoại? Từ ngày hôm nay con thường phải suy nghĩ thân Như Lai là pháp thân thường còn, là thân an lạc. Con cũng sẽ vì người rộng nói như vậy! Kính thưa đức Thế Tôn! Pháp thân Như Lai là Kim Cương bất hoại mà chưa có thể biết đã do nhân duyên gì?

Ðức Phật bảo ngài Ca Diếp rằng:

– Do cái nhân duyên hay hộ trì chánh pháp nên được thành tựu thân Kim Cương này. Này Ca Diếp! Vào thuở xa xưa, ta có nhân duyên hộ pháp nên nay được thành tựu thân Kim Cương này, thường trụ chẳng hoại. Này thiện nam tử! Người hộ trì chánh pháp mà chẳng thọ năm giới, chẳng tu oai nghi thì nên cầm dao kiếm, cung tên, sào mâu… thủ hộ vị Tỳkheo giữ giới thanh tịnh!

Bồ tát Ca Diếp bạch đức Phật rằng:

– Thưa đức Thế Tôn! Nếu có vị Tỳ kheo lìa khỏi sự thủ hộ, ở một mình chỗ không nhàn, bãi tha ma, dưới gốc cây… thì phải nói người này là Tỳ kheo chân chính. Nếu có người đuổi theo hành giả để thủ hộ thì phải biết rằng nhóm người này chính là cư sĩ ngốc!

Ðức Phật bảo ngài Ca Diếp rằng:

– Ông chớ nói lời này! Rằng là cư sĩ ngốc! Nếu có vị Tỳ kheo, thân nhận đủ sự cung cấp của kẻ theo đến chỗ của mình thì dù vị Tỳ kheo đó đọc tụng kinh điển, tư duy tọa thiền và có người đến hỏi pháp liền vì họ tuyên nói như là nói bố thí, trì giới, phước đức, thiểu dục tri túc, tuy có thể nói pháp đủ thứ như vậy, nhưng chẳng thể tạo được tiếng rống của sư tử, chẳng được sự vây quanh của sư tử, chẳng thể hàng phục người ác phi pháp. Vị Tỳ kheo như vậy chẳng thể tự lợi và lợi chúng sinh. Ông phải biết rằng, bọn này giải đãi biếng lười, tuy có thể trì giới, giữ gìn tịnh hạnh, nhưng ông phải biết là người này không làm được gì! Nếu có Tỳ kheo mà đồ cung cấp cho thân cũng thường đầy đủ dồi dào, lại hay hộ trì việc thọ cấm giới thì có thể rống tiếng sư tử rộng nói diệu pháp như là các kinh Tu Ða La Kỳ Dạ, Thọ Ký, Già Ðà, Ưu Ðà Na, Y Ðế Mục Ða Già, Xà Ðà Già, Tỳ Phật Lược, A Phù Ðà Ðạt Ma.v.v… chín bộ Kinh điển như vậy vì người khác mà nói rộng rãi, lợi ích an lạc cho các chúng sinh. Họ xướng lên lời như vầy: “Trong kinh Niết Bàn chế các Tỳ kheo chẳng nên nuôi dưỡng nô tỳ, trâu dê… những vật phi pháp. Nếu có Tỳ kheo nuôi những vật bất tịnh như vậy thì cần phải sửa trị. Ðức Như Lai trước, ở trong các bộ Kinh khác, có nói rằng, có vị Tỳ kheo nuôi những vật phi pháp như vậy đã bị vị quốc vương của nước đó theo đúng như pháp sửa trị, đuổi trở về với thế tục”. Nếu khi có vị Tỳ kheo có thể rống tiếng sư tử như vậy mà có kẻ phá giới nghe được lời nói đó rồi đều nổi sân nhuế làm hại vị pháp sư này. Người nói pháp đó giả sử lại mạng chung nên gọi là trì giới lợi mình và lợi người khác. Do cái duyên này nên ta cho phép Quốc vương, quần thần, tể tướng, các Ưu bà tắc… hộ trì người nói pháp. Nếu có người muốn được hộ chánh pháp thì phải học tập như vậy. Này Ca Diếp! Như vậy người phá giới chẳng hộ pháp thì gọi là cư sĩ ngốc chứ chẳng phải người trì giới bị gọi như vậy! Này thiện nam tử! Thuở đời quá khứ xa xưa, vô lượng vô biên atăngkỳ kiếp, ở thành Câu Thi Na này, có đức Phật ra đời hiệu là Hoan Hỷ Tăng Ích Như Lai Ứng Cúng Chánh Biến Tri Minh Hành Túc Thiện Thệ Thế Gian Giải Vô Thượng Sĩ Ðiều Ngự Trượng Phu Thiên Nhơn Sư Phật Thế Tôn. Thế giới bây giờ rộng rãi nghiêm tịnh, thịnh vượng, an vui, ổn định, nhân dân đông đúc, không có đói khát như những vị Bồ tát… của nước An lạc. Ðức Phật Thế Tôn đó trụ thế không lường, giáo hóa chúng sinh rồi nhiên hậu mới đến Ta La song thọ vào Bát Niết Bàn. Sau đức Phật Niết Bàn để lại giáo pháp trụ thế vô lượng ức năm. Còn bốn mươi năm nữa lúc Phật pháp chưa diệt, bấy giờ có một vị Tỳ kheo trì giới tên là Giác Ðức, có nhiều đồ chúng quyến thuộc vây quanh, có thể rống tiếng sư tử ban tuyên rộng rãi giảng nói chín bộ Kinh điển, hạn chế các vị Tỳ kheo chẳng được nuôi dưỡng nô tỳ, trâu dê… các vật phi pháp. Lúc bấy giờ, có nhiều Tỳ kheo phá giới nghe nói lời này thì đều sinh ác tâm. Họ cầm dao gậy đến bức bách vị pháp sư đó. Lúc đó có vị quốc vương tên là Hữu Ðức nghe việc này rồi thì vì hộ pháp nên liền đi đến chỗ người nói pháp cùng với các Tỳ kheo ác phá giới cực lực đấu tranh với họ khiến cho người nói pháp được khỏi nguy hại. Nhà vua bị thương cùng khắp toàn thân. Bấy giờ ngài Giác Ðức liền khen nhà vua rằng: “Hay thay! Hay thay! Nhà vua hôm nay quả thật là người hộ chánh pháp. Ðời đương lai thân này sẽ làm pháp khí không lường”. Vào lúc đó, nhà vua được nghe pháp rồi, lòng rất vui mừng, liền mạng chung, sinh vào nước của đức Phật A Súc mà được làm đệ tử thứ nhất của đức Phật đó. Nhân dân quyến thuộc theo đức vua ấy có chiến đấu, có tùy hỷ, tất cả chẳng thoái tâm Bồ Ðề, sau khi mạng chung đều sinh vào nước của đức Phật A Súc mà được làm đệ tử thứ hai trong chúng Thanh Văn của đức Phật đó. Nếu khi có Chánh pháp sắp diệt tận thì cần phải thọ trì ủng hộ như vậy. Này Ca Diếp! Vị vua lúc bấy giờ là thân ta đó! Vị Tỳ kheo nói pháp là Phật Ca Diếp đó! Này Ca Diếp! Người hộ Chánh pháp được vô lượng phước báo như vậy. Do nhân duyên đó nên ta ngày hôm nay được đủ thứ tướng để tự trang nghiêm, thành tựu pháp thân, thân chẳng thể hoại.

Bồ tát Ca Diếp lại bạch đức Phật rằng:

– Thưa đức Thế Tôn! Thân Như Lai thường giống như họa thạch (vẽ trên đá)!

Ðức Phật bảo ngài Ca Diếp rằng:

– Này thiện nam tử! Do nhân duyên này nên Tỳ kheo, Tỳ kheo ni, Ưu bà tắc, Ưu bà di cần phải siêng gia công hộ trì Chánh pháp vì quả báo hộ pháp rộng lớn không lường. Này thiện nam tử! Vậy nên khi hộ pháp thì Ưu bà tắc.v.v… nên cầm dao gậy ủng hộ Tỳ kheo trì pháp như vậy. Nếu có người thọ trì đủ năm giới thì chẳng được gọi là người Ðại Thừa vậy. Chẳng thọ năm giới mà vì hộ trì Chánh pháp thì mới gọi là Ðại Thừa. Người hộ chánh pháp cần phải cầm dao kiếm, binh khí hầu hạ bảo vệ pháp sư!

Ngài Ca Diếp bạch đức Phật rằng:

– Thưa đức Thế Tôn! Nếu các Tỳ kheo cùng những Ưu bà tắc như vậy.v.v… cầm dao gậy thì chung làm bạn bè, làm gì có thầy? Là không thầy ư? Là trì giới? Hay là phá giới?

Ðức Phật bảo ngài Ca Diếp:

– Ông chớ gọi những người đó là người phá giới! Này thiện nam tử! Sau khi ta Niết Bàn, đời ác trược, đất nước hoang loạn, cướp lấy lẫn nhau, nhân dân đói khát. Bấy giờ, có nhiều người vì đói khát nên phát tâm xuất gia. Người như vậy gọi là người ngốc. Bọn người ngốc này thấy có vị Tỳ kheo trì giới uy nghi đầy đủ thanh tịnh hộ trì chánh pháp thì xua đuổi ra khỏi, hoặc giết hoặc hại họ.

Bồ tát Ca Diếp lại bạch đức Phật rằng:

– Thưa đức Thế Tôn! Người trì giới này hộ Chánh pháp thì sao phải được du hành đến thôn xóm thành ấp để giáo hóa?

– Này thiện nam tử! Vậy nên, ta nay cho phép người trì giới nương vào những người bạch y (thế gian) cầm dao gậy vì là bạn bè. Nếu các quốc vương, đại thần, trưởng giả, ưu bà tắc.v.v… vì hộ pháp nên tuy cầm dao gậy nhưng ta vẫn nói rằng những người đó gọi là trì giới. Tuy cầm dao gậy nhưng chẳng nên đoạn dứt mạng sống, nếu có thể được như vậy thì liền được gọi là trì giới đệ nhất.

Này Ca Diếp! Bàn về người hộ pháp thì đó là người chánh kiến đầy đủ, có khả năng tuyên nói Kinh điển Ðại Thừa rộng rãi, nhất định chẳng nắm giữ bảo cái của vua, bình dầu, lúa gạo… đủ thứ trái cây, chẳng vì lợi dưỡng mà thân cận, quốc vương, đại thần, trưởng giả, đối với các đàn việt lòng không dua nịnh quanh co, đầy đủ uy nghi, tiêu diệt hàng phục những người ác phá giới.v.v… Ðó gọi là thầy trì giới hộ pháp. Người hộ pháp có thể làm thiện tri thức chân chánh của chúng sinh. Lời thề rộng lớn của lòng họ ví như biển cả. Này Ca Diếp! Nếu có Tỳ kheo do lợi dưỡng nên vì người khác nói pháp thì sở hữu đồ chúng quyến thuộc của người này cũng bắt chước thầy mình tham cầu lợi dưỡng. Người này như vậy là tự hủy hoại chúng. Này Ca Diếp! Chúng có ba thứ, một là phạm giới tạp tăng, hai là ngu si tăng; ba là thanh tịnh tăng. Phá giới tạp tăng thì dễ bị hoại, trì giới tịnh tăng thì nhân duyên lợi dưỡng đã chẳng thể hoại. Sao gọi là phá giới tạp tăng? Nếu có Tỳ kheo tuy giữ cấm giới nhưng vì lợi dưỡng nên cùng với người phá giới ngồi đứng đi lại, chung nhau cận kề, đồng sự nghiệp với người ấy. Ðó gọi là phá giới tăng, cũng gọi là tạp tăng. Sao gọi là ngu si tăng? Nếu có Tỳ kheo ở tại chỗ A lan nhã mà các căn chẳng linh lợi, ám độn, đờ đẫn, ít dục, xin ăn, vào ngày nói giới và khi tự tứ, vị Tỳ kheo ấy dạy các đệ tử thanh tịnh sám hối, thấy kẻ chẳng phải đệ tử, phạm nhiều cấm giới, chẳng thể dạy bảo khiến cho thanh tịnh sám hối mà cứ cùng chung với họ nói giới, tự tứ. Ðó gọi là ngu si tăng. Sao gọi là thanh tịnh tăng? Có Tỳ kheo tăng mà trăm ngàn ức ma chẳng thể hoại được. Chúng Bồ tát này bản tính thanh tịnh, có thể điều phục chúng của hai bộ phận như trên khiến cho họ an trụ ở trong chúng thanh tịnh. Ðó gọi là đại sư hộ pháp vô thượng, người giỏi trì luật. Vì muốn điều phục lợi ích cho chúng sinh nên người ấy biết tướng của các giới, hoặc khinh, hoặc trọng, chẳng phải là luật thì chẳng chứng tri còn nếu là luật thì liền chứng tri. Sao gọi là điều phục chúng sinh? Nếu các vị Bồ tát vì hóa độ chúng sinh nên thường vào tụ lạc, chẳng chọn thời tiết, hoặc đến nhà quả phụ và nhà dâm nữ cùng đồng dừng ở trải qua nhiều năm. Nếu là Thanh Văn, thì chẳng nên làm. Ðó gọi là điều phục, lợi ích chúng sinh. Sao gọi là biết trọng? Nếu thấy đức Như Lai nhân việc chế ra giới rằng: “Ông từ nay thận trọng chớ lại phạm!” như bốn trọng cấm mà người xuất gia chẳng nên làm mà vẫn làm thì chẳng phải là Samôn, chẳng phải con của dòng họ Thích. Ðó gọi là trọng. Sao gọi là khinh? Nếu phạm việc nhẹ, sau ba lần can ngăn như vậy nếu có thể bỏ thì đó gọi là khinh. Chẳng phải luật chẳng chứng là nếu có người khen nói vật chẳng thanh tịnh nên thọ dụng mà chẳng đồng chung dừng lại. Ðúng luật nên chứng là giỏi học giới luật, chẳng gần người phá giới, thấy có hành động thuận theo giới luật thì lòng phát sinh hoan hỷ. Như vậy có thể biết việc làm Phật pháp có thể giải thoát tốt lành. Ðó gọi là luật sư khéo giải một chữ, khéo giữ gìn khế kinh cũng lại như vậy. Như vậy, này thiện nam tử! Phật pháp vô lượng chẳng thể nghĩ bàn! Như Lai cũng vậy, chẳng thể nghĩ bàn.

Bồ tát Ca Diếp bạch đức Phật rằng:

– Thưa đức Thế Tôn! Ðúng vậy! Ðúng vậy! Quả thật như lời dạy của đức Thánh! Phật pháp vô lượng chẳng thể nghĩ bàn! Như Lai cũng vậy chẳng thể nghĩ bàn! Nên biết rằng, Như Lai thường trụ, chẳng hoại, không có biến dị! Con nay học đã hoàn thiện, cũng sẽ vì người tuyên nói rộng rãi ý nghĩa đó!

Lúc bấy giờ, đức Phật khen Bồ tát Ca Diếp:

– Hay thay! Hay thay! Thân Như Lai tức là thân Kim Cương chẳng thể hoại! Bồ tát cần phải học tốt chánh kiến, chánh tri như vậy. Nếu có khả năng thấy biết tỏ rõ như vậy thì tức là thấy được thân Kim Cương, thân chẳng thể hoại của Phật như thấy các sắc tượng ở trong gương.

6. PHẨM DANH TỰ CÔNG ÐỨC

Lúc bấy giờ, đức Như Lai lại bảo ngài Ca Diếp rằng:

– Này thiện nam tử! Ông nay cần phải khéo giữ gìn công đức sở hữu, chương cú, văn tự của Kinh này. Nếu có thiện nam tử, thiện nữ nhân nghe tên Kinh này mà sinh vào bốn đường thì không có chỗ này. Vì sao vậy? Vì kinh điển như vậy chính là sự tu tập của vô lượng vô biên các đức Phật mà công đức sở đắc hôm nay ta sẽ nói!

Bồ tát Ca Diếp bạch đức Phật rằng:

– Thưa đức Thế Tôn! Kinh này sẽ tên là gì? Ðại Bồ tát phụng trì ra sao?

Ðức Phật bảo ngài Ca Diếp:

– Kinh này tên là Ðại Bát Niết Bàn! Lời nói trên cũng tốt, lời nói giữa cũng tốt, lời nói dưới cũng tốt, nghĩa vị thâm thúy, văn ấy cũng hay, chuẩn bị đầy đủ phạm hạnh thanh tịnh, bảo tạng kim cương đủ đầy không khiếm khuyết. Ông khéo lắng nghe, ta nay sẽ nói! Này thiện nam tử! Sở dĩ nói rằng Ðại là gọi đó là thường như tám dòng sông lớn đều về đại hải (biển cả). Kinh này như vậy đã hàng phục tất cả các phiền não kết và các ma tánh, rồi nhiên hậu mới cần đến Ðại Bát Niết Bàn buông bỏ thân mạng. Vậy nên tên là Ðại Bát Niết Bàn. Này thiện nam tử! Lại như vị thầy thuốc có một phương thang bí mật nhiếp lấy hết tất cả y thuật sở hữu. Này thiện nam tử! Như Lai cũng vậy, đã nói đủ thứ tạng môn thâm áo, bí mật của Diệu Pháp đều vào hết trong Ðại Bát Niết Bàn này. Vây nên tên là Ðại Bát Niết Bàn. Này thiện nam tử! Ví như người nông phu tháng xuân xuống giống thường có hy vọng. Ðã thu hái quả trái xong thì mọi hy vọng đều dứt. Này thiện nam tử! Tất cả chúng sinh cũng lại như vậy, tu học Kinh khác thường mong thêm vị (tư vị), nếu được nghe Kinh Ðại Bát Niết Bàn này thì sự hy vọng thêm vị sẵn có trong các Kinh đều đoạn tuyệt vĩnh viễn. Ðại Niết Bàn này có thể khiến cho chúng sinh qua khỏi các dòng “hữu”. Này thiện nam tử! Như trong các dấu chân thì dấu chân voi là hơn hết. Như vậy, Kinh này đối với các Kinh, tam muội thì rất là số một. Này thiện nam tử! Ví như cày ruộng thì cày vào mùa thu là hơn hết. Như vậy Kinh này hơn hết trong các Kinh. Này thiện nam tử! Như trong các thuốc thì Ðề hồ số một, giỏi trị tâm loạn nhiệt não của chúng sinh. Kinh Ðại Niết Bàn là tối đệ nhất. Này thiện nam tử! Ví váng sữa (tô) ngon tám vị đầy đủ. Ðại Bát Niết Bàn cũng lại như vậy, tám vị đầy đủ. Sao gọi là tám vị? – Một là Thường, hai là Hằng, ba là An, bốn là Thanh Lương, năm là Chẳng Già, sáu là Chẳng Chết, bảy là Vô Cấu, tám là Khoái Lạc. Ðó là tám vị. Ðầy đủ tám vị đó nên gọi là Ðại Bát Niết Bàn. Nếu những Ðại Bồ tát an trụ trong đó mà lại có thể nơi nơi thị hiện Niết Bàn thì đó gọi là Ðại Bát Niết Bàn. Này Ca Diếp! Thiện nam tử, thiện nữ nhân! Nếu muốn ở trong Ðại Bát Niết Bàn này mà Niết Bàn thì đều phải tạo tác sự học này: Như Lai thường trụ, Pháp, Tăng cũng vậy.

Bồ tát Ca Diếp lại bạch đức Phật rằng:

– Lạ quá! Thưa đức Thế Tôn! Công đức của Như Lai chẳng thể nghĩ bàn, Pháp, Tăng cũng vậy, chẳng thể nghĩ bàn, Ðại Niết Bàn đó cũng chẳng thể nghĩ bàn. Nếu có người tu học kinh điển này thì được Chánh pháp môn, có thể làm thầy thuốc giỏi. Nếu người chưa học thì phải biết là người đó mù, không có tuệ nhãn, bị sự che phủ của vô minh.

KINH ÐẠI BÁT NIẾT BÀN

– Quyển thứ ba hết –

    Xem thêm:

  • Kinh Trung A-Hàm – HT Thích Tuệ Sĩ dịch - Kinh Tạng
  • Kinh Trường A-Hàm – HT Thích Tuệ Sĩ dịch - Kinh Tạng
  • Kinh Trường A-Hàm Phần 4 – HT Thích Tuệ Sĩ dịch - Kinh Tạng
  • Kinh Trường A-Hàm Phần 3 – HT Thích Tuệ Sĩ dịch - Kinh Tạng
  • Kinh Trường A-Hàm Phần 2 – HT Thích Tuệ Sĩ dịch - Kinh Tạng
  • Kinh Trường A-Hàm Phần 1 – HT Thích Tuệ Sĩ dịch - Kinh Tạng
  • Kinh Dược Sư Lưu Ly Quang Như Lai Bổn Nguyện Công Đức – Tuệ Nhuận dịch - Kinh Tạng
  • Kinh Tinh Xá Đầu Voi – Thích Nữ Tuệ Thành dịch - Kinh Tạng
  • Kinh Bảy Giấc Mộng Của A Nan – Thích Nữ Tuệ Thành dịch - Kinh Tạng
  • Kinh Duy Ma Cật Sở Thuyết – HT Thích Tuệ Sỹ dịch - Kinh Tạng
  • Kinh Đại Bát Niết Bàn – Thích Trí Tịnh dịch - Kinh Tạng
  • Kinh A Nan Vấn Phật Sự Cát Hung – Thích Nữ Tuệ Thành dịch - Kinh Tạng
  • Nghi Quỹ Bố Đàn Pháp Tu Dược Sư - Kinh Tạng
  • Kinh Bách Dụ – Thích Tâm Châu dịch - Kinh Tạng
  • Kinh Văn Thù Sư Lợi Bát Niết Bàn – Thích Nữ Thành Thông dịch - Kinh Tạng
  • Kinh Văn Thù Sư Lợi Bát Niết Bàn – Huyền Thanh dịch - Kinh Tạng
  • Kinh Trường Bộ (Dìgha Nikàya) – HT Thích Minh Châu dịch (Trọn bộ) - Kinh Tạng
  • Kinh Khai Giác Tự Tánh Bát Nhã Ba La Mật Đa - Kinh Tạng
  • Kinh Đại Bát Niết Bàn – Đoàn Trung Còn & Nguyễn Minh Tiến dịch - Kinh Tạng
  • Kinh Phật Dạy Tu Tập Mười Nghiệp Lành - Kinh Tạng