1
2
3
4
5
6
7
8
9
10
11
12
13
14
15
16
17
18
19
20
21
22
23
24
25
26
27
28
29
30
31
32
33
34
35
36

Quyển thứ hai

2. PHẨM THUẦN ÐÀ

Lúc bấy giờ, trong hội có vị ưu bà tắc là con người thợ khéo của thành Câu Thi Na, tên là Thuần Ðà cùng với đồng loại gồm mười lăm người, vì khiến cho thế gian được quả tốt nên xả uy nghi của thân, đứng dậy, trật áo vai phải, gối phải quì xuống đất, chắp tay hướng về đức Phật, buồn cảm rơi lệ, đảnh lễ dưới chân đức Phật mà bạch đức Phật rằng:

– Nguyện xin đức Thế Tôn và Tỳkheo Tăng thương xót nhận lễ cúng dường sau cùng của chúng con vì độ vô lượng những chúng sinh. Thưa đức Thế Tôn! Chúng con từ nay không còn chủ, không người thân, không ai cứu, không ai hộ, không chỗ về, không nơi đến, bần cùng đói khát khốn khổ, muốn theo đức Như Lai cầu đồ ăn tương lai, nguyện xin đức Như Lai thương xót nhận cho chút lễ cúng dường của chúng con rồi nhiên hậu mới Niết Bàn! Thưa đức Thế Tôn! Ví như sát lợi, hoặc Bà la môn, Tỳ xá, Thủ đà do nghèo cùng nên đến đất nước khác xa xôi, ra sức làm nông mà được trâu điều phục tốt, ruộng tốt bằng phẳng, không có những cát mặn, cỏ xấu, hoang hóa, dơ bẩn, chỉ còn mong trời mưa xuống. Nói trâu điều phục là ví thân miệng tốt. Ruộng tốt bằng phẳng là ví cho trí tuệ. Trừ khử cát mặn, cỏ xấu, hoang hóa, dơ bẩn là ví cho việc trừ khử phiền não. Bạch Thế Tôn! Con nay, thân có trâu thuần, ruộng tốt, làm sạch cỏ, trừ mọi dơ bẩn chỉ còn mong mưa pháp cam lồ của đức Như Lai. Tứ tánh (bốn giai cấp) nghèo tức là thân con đó. Nghèo là nghèo của báu đối với pháp Vô Thượng, nguyện xin đức Thế Tôn thương xót đoạn trừ sự bần cùng khốn khổ của chúng con! Cứu vớt vô lượng chúng sinh khổ não! Lễ cúng dường của con tuy nhỏ mọn nhưng muốn được sung túc đại chúng của đức Như Lai. Con nay không có chủ, không thân thích, không nơi nương về, nguyện xin ngài rũ lòng xót thương như thương La Hầu La.

Lúc bấy giờ, đức Thế Tôn Nhất Thiết Chủng Trí Vô Thượng Ðiều Ngự bảo ông Thuần Ðà rằng:

– Hay thay! Hay thay! Ta nay vì ông đoạn trừ bần cùng! Ðem pháp vũ Vô thượng mưa xuống ruộng thân của ông, khiến cho sinh ra mầm pháp! Ông nay đối với ta muốn cầu thọ mạng, sắc lực, an vui, vô ngại biện tài! Ta sẽ ban cho ông thọ mạng, sắc lực, an vui, vô ngại biện tài. Vì sao vậy? Này Thuần Ðà! Vì cho ăn có hai quả báo không sai khác. Những gì là hai? Một là nhận rồi thì được Vô Thượng Chánh Ðẳng Chánh Giác. Hai là nhận rồi thì vào Niết Bàn. Ta nay nhận sự cúng dường sau cùng của ông, khiến cho ông đầy đủ Ðàn Balamật.

Bấy giờ, ông Thuần Ðà liền bạch đức Phật rằng:

– Như lời nói của đức Phật, hai quả báo của sự bố thí không sai khác thì nghĩa này chẳng phải! Vì sao vậy? Vì người thọ thí trước thì phiền não chưa hết, chưa được thành tựu Nhất thiết chủng trí, cũng chưa có thể khiến cho chúng sinh đầy đủ Ðàn Balamật. Người thọ thí sau phiền não đã hết, đã được thành tựu Nhất thiết chủng trí, có thể khiến chúng sinh đều được đầy đủ Ðàn Balamật. Người thọ thí trước, cũng là chúng sinh, người thọ thí sau là trời trong trời. Người thọ thí trước là thân tạp thực, là thân phiền não, là thân hậu biên, là thân vô thường. Người thọ thí sau là thân không phiền não, là thân Kim cương, pháp thân thường thân, thân vô biên. Tại sao nói quả báo của hai cách bố thí này là bình đẳng không sai khác? Người thọ thí trước chưa có thể đầy đủ Ðàn Balamật…cho đến Bát nhã Balamật, chỉ được nhục nhãn chưa được Phật nhãn… cho đến tuệ nhãn. Người thọ thí sau đã được đầy đủ Ðàn Balamật.v.v.. cho đến Bát nhã Balamật, đầy đủ Phật nhãn… cho đến tuệ nhãn. Vậy thì sao mà gọi là quả báo hai sự bố thí bình đẳng không sai biệt. Thưa đức Thế Tôn! Người thọ thí trước, thọ rồi ăn vào bụng, tiêu hóa thì được thọ mạng, được sắc, được lực, được yên, được vô ngại biện. Người thọ thí sau chẳng ăn, chẳng tiêu, không có kết quả năm việc thì sao gọi là quả báo hai sự bố thí bình đẳng, không sai khác?

Ðức Phật dạy rằng:

– Này thiện nam tử! Như Lai đã ở vô lượng vô biên atăngkỳ kiếp, không có thân hữu thực, thân phiền não, mà là thân không hậu biên (bờ sau), thân thường còn, thân pháp, thân kim cương. Này thiện nam tử! Người chưa thấy Phật tính thì gọi là thân phiền não, thân tạp thực, là thân hậu biên. Bồ tát bấy giờ thọ ẩm thực rồi vào Kim cương tam muội, đồ ăn này tiêu rồi liền thấy Phật tính, được Vô Thượng Chánh Ðẳng Chánh Giác. Vậy nên ta nói rằng, quả báo của hai sự bố thí bình đẳng, không sai biệt. Bồ tát bấy giờ phá hoại bốn ma, nay vào Niết Bàn cũng phá bốn ma. Vậy nên ta nói rằng, quả báo của hai sự bố thí bình đẳng, không sai biệt. Bồ tát bấy giờ tuy chẳng rộng nói mười hai bộ Kinh, nhưng đã thông đạt trước, nay vào Niết Bàn vì chúng sinh phân biệt diễn nói rộng rãi. Vậy nên ta nói rằng, quả báo hai sự bố thí bình đẳng không sai biệt. Này thiện nam tử! Thân của Như Lai đã ở vô lượng atăngkỳ kiếp chẳng thọ ẩm thực, vì các Thanh văn nên ta nói rằng, trước thọ sự hiến dâng sữa mè của hai cô gái chăn trâu Nan Ðà và Nan Ðà Ba La nhiên hậu mới được Vô Thượng Chánh Ðẳng Chánh Giác. Nhưng thật sự ta chẳng ăn. Ta nay khắp vì tạo tác cho chúng đại hội nên thọ sự dâng hiến sau cùng của ông, thật sự cũng chẳng ăn.

Lúc bấy giờ, đại chúng nghe đức Phật Thế Tôn khắp vì đại hội, thương xót nhận lễ cúng dường tối hậu của ông Thuần Ðà thì vui mừng, nhảy nhót, đồng thanh khen rằng:

– Hay thay! Hay thay! Hy hữu thay! Này ông Thuần Ðà! Ông nay đứng tên chẳng là rỗng xưng! Nói Thuần Ðà là tên Giải diệu nghĩa. Ông nay đã kiến lập đại nghĩa như thế. Vậy nên y thật theo nghĩa mà lập danh nên gọi là Thuần Ðà. Ông nay, ở đời hiện tại được danh lợi lớn, đức nguyện đủ đầy. Rất lạ! Này Thuần Ðà! Ông sinh tại trong loài người lại được cái lợi vô thượng khó được! Hay thay! Này Thuần Ðà! Như hoa Ưu đàm hiếm có ở thế gian, đức Phật ra đời cũng lại rất khó. Gặp Phật sinh ra, tin nghe pháp lại càng khó. Phật sắp Niết Bàn mà cúng dường tối hậu, có thể bày biện việc này lại khó đến thế! Nam mô Thuần Ðà! Nam mô Thuần Ðà! Ông nay đã đủ Ðàn Balamật giống như trăng thu đêm ngày mười lăm tràn đầy thanh tịnh, không có những mây che, tất cả chúng sinh không ai chẳng chiêm ngưỡng! Ông cũng như vậy! Mà vì sự chiêm ngưỡng của chúng tôi, đức Phật đã thọ lễ cúng dường tối hậu của ông khiến cho ông đầy đủ Ðàn Balamật. Nam mô Thuần Ðà! Vậy nên nói ông như vầng trăng tròn đầy, tất cả chúng sinh không ai chẳng chiêm ngưỡng. Nam mô Thuần Ðà! Tuy ông thọ thân người nhưng tâm như tâm Phật. Này ông Thuần Ðà! Ông nay chính là con của Phật chân thật như ngài La Hầu La ngang bằng không có khác.

Lúc bấy giờ, đại chúng liền nói kệ rằng:

Ông tuy sinh nhân đạo

Ðã vượt Ðệ Lục Thiền

Chúng ta, tất cả chúng

Nay cúi đầu mời ông.

Trong người, bậc Tối Thắng

Nay sẽ vào Niết Bàn

Ông nên thương đại chúng

Xin mau thỉnh Thế Tôn

Ở lâu ở cõi thế

Lợi ích chúng không lường.

Diễn nói việc khen trí

Pháp cam lộ không trên.

Nếu ông chẳng thỉnh Phật

Mạng chúng ta chẳng toàn

Vậy nên ông ứng kiến

Cúi thỉnh đức Thế Tôn.

Lúc bấy giờ, ông Thuần Ðà vui mừng hớn hở, giống như có người cha mẹ chết, làm lễ tang thì bỗng nhiên sống trở lại, ông Thuần Ðà vui mừng cũng lại như vậy. Ông lại đứng dậy lễ đức Phật mà nói kệ rằng:

Sướng thay! Lợi mình được!

Tốt lành được nhân thân

Tiêu trừ tham, sân nhuế…

Lìa mãi ác ba đường!

Sướng thay! Lợi mình được!

Gặp được nhóm báu vàng

Gặp gỡ đấng Ðiều Ngự

Chẳng sợ đọa súc sinh!

Phật như hoa Ưu Ðàm

Gặp gỡ sanh tin khó

Gặp rồi gieo thiện căn

Mãi diệt khổ ngã quỉ

Cũng lại hay tổn thương

A tu la chủng loại.

Hạt cải ném mũi kim

Phật ra đời khó vậy!

Con đã đầy đủ Ðàn (Balamật)

Ðộ người trời sanh tử

Phật chẳng nhiễm thế gian

Như hoa sen ở nước

Giỏi đoạn giống đỉnh nước (?)

Qua khỏi dòng tử sinh

Sinh đời, làm người khó

Gặp đời Phật khó hơn,

Giống như trong biển cả

Rùa mù gặp ván lỗ.

Con nay dâng bữa ăn

Nguyện được Vô thượng báo

Tất cả kết não phiền

Triệt phá không kiên cố.

Ở chỗ này, nay con

Chẳng cầu thân nhân thiên

Giả sử được thân đó

Niềm vui lòng chẳng cam.

Như Lai thọ con cúng

Vui mừng không có lường

Như hoa Y Lan đó

Phát ra hương Chiên đàn

Thân con như Y Lan

Như Lai thọ con cúng

Như tỏa hương Chiên đàn

Vậy nên con hoan hỷ.

Con được báo hiện tiền

Chỗ thượng diệu tối thắng.

Phạm, Thích và chư Thiên…

Ðều đến cúng dường con

Tất cả những thế gian

Ðều sinh đại khổ não.

Do biết Phật Thế Tôn

Nay muốn vào Tịch diệt(Niết bàn)

Lớn tiếng xướng lên rằng:

Thế gian không Ðiều Ngự

Chẳng nên bỏ chúng sinh

Nên xem như con một.

Như Lai ở trong Tăng

Diễn nói pháp Vô thượng

Như Tu Di bảo sơn

Ở yên với biển cả.

Trí Phật hay đoạn tan

Chúng con vô minh ám

Giống như trong hư không

Mây khởi được mát mẻ

Như Lai giỏi trừ khử

Tất cả những não phiền

Giống như mặt trời mọc

Trừ mây, sáng khắp cùng.

Hôm nay những sinh chúng

Luyến mộ thêm bi thương

Ðều bị trôi dạt ở

Trong nước khổ tử sinh.

Do vậy nên đức Phật

Cho họ dài niềm tin

Vì đoạn khổ sinh tử

Ở lâu với thế gian!

Ðức Phật bảo ông Thuần Ðà rằng:

– Ðúng vậy! Ðúng vậy! Ðúng như lời nói của ông! Phật ra đời khó như hoa Ưu đàm. Gặp được Phật mà sinh lòng tin cũng lại rất khó. Phật sắp Niết Bàn dâng bữa ăn sau cùng để có thể đầy đủ Ðàn Balamật lại rất khó bội phần. Này Thuần Ðà! Ông nay chớ sầu khổ quá! Ông nên phải hoan hỷ, tự mừng rỡ may mắn sâu sắc là được gặp Như Lai cúng dường lần sau cùng, thành tựu đầy đủ Ðàn Balamật! Ông chẳng nên thỉnh Phật ở lâu với đời! Ông nay phải quan sát cảnh giới của chư Phật đều là vô thường, tánh tướng các hạnh cũng lại như vậy.

Ðức Phật liền vì ông Thuần Ðà mà nói kệ rằng:

Tất cả các thế gian

Sinh thì đều về tử

Thọ mạng tuy không lường

Tất yếu có chung tận.

Thịnh ắt có suy vong

Hội họp có ly biệt

Tuổi trẻ chẳng lâu dừng

Thịnh sắc bệnh lấn lướt

Mạng bị thần chết nuốt

Không có pháp thường còn.

Các vua được tự tại

Thế lực thật vô song

Tất cả đều dời diệt

Thọ mạng cũng như trên

Bánh xe khổ không bến

Lưu chuyển không nghỉ ngưng

Ba cõi đều vô thường

Các hữu chẳng phải lạc (vui)

Tánh tướng hữu các đường

Tất cả đều không rỗng

Pháp lưu chuyển hoại tan

Thường có những ưu hoạn.

Các lỗi ác kinh hoàng (khủng bố)

Già bệnh chết suy não

Là những cái không biên

Dễ hoại, oán lấn lướt

Bị phiền não buộc ràng

Như tằm ở trong kén

Sao có người tuệ thông

Mà phải ưa chỗ đó?

Thân này khổ đã gom

Tất cả đều bất tịnh.

Ung nhọt và buộc ràng…

Căn bản không nghĩa lợi

Trên đến thân chư thiên

Ðều cũng lại như vậy.

Các dục đều vô thường

Nên ta chẳng tham trước

Khéo nghĩ lìa dục xong

Mà chứng pháp chân thật.

Ðoạn các “hữu” rốt cùng

Hôm nay sẽ Niết Bàn!

Ta qua bờ hữu đó

Ra khỏi tất cả khổ

Vậy nên hôm nay đây

Chỉ thọ vui thượng diệu!

Lúc bấy giờ, ông Thuần Ðà bạch đức Phật rằng:

– Thưa đức Thế Tôn! Ðúng vậy! Ðúng vậy! Quả thật như lời dạy của đức Thánh! Nay với sở hữu trí tuệ nhỏ nhoi cạn cợt của con giống như con muỗi con ve thì làm sao có thể nghĩ bàn về ý nghĩa thâm áo Niết Bàn của đức Như Lai? Thưa đức Thế Tôn! Con nay đã cùng với các đại long tượng Bồ tát Mahatát đoạn hết những kết lậu như ngài Văn Thù Sư Lợi Pháp Vương Tử.v.v… Thưa đức Thế Tôn! Ví như đứa trẻ thơ mới được xuất gia, tuy chưa đủ giới mà liền rơi vào tăng số, con cũng như vậy. Do sức thần thông của Phật, Bồ tát nên con được ở vào số đại Bồ tát như vậy. Vậy nên con nay muốn cho đức Như Lai trụ ở đời lâu dài, chẳng vào Niết Bàn. Ví như người đói nhất định không có gì khác để nhổ ra, nguyện xin đức Thế Tôn cũng lại như vậy, thường trụ ở đời, chẳng vào Niết Bàn!

Lúc bấy giờ, ngài Văn Thù Sư Lợi Pháp Vương Tử bảo ông Thuần Ðà rằng:

– Này ông Thuần Ðà! Ông nay chẳng nên nói ra lời như vậy, muốn cho đức Như Lai thường trụ ở đời, chẳng vào Niết Bàn như người đói kia không có gì khác để nhổ ra. Ông nay phải quan sát tánh tướng của các hạnh. Như vậy là quán hạnh cụ không tam muội. Muốn cầu chánh pháp thì ông phải học như vậy.

Ông Thuần Ðà hỏi rằng:

– Thưa ngài Văn Thù Sư Lợi! Luận về Như Lai thì trên trời, trong loài người ngài là bậc tối tôn, tối thắng. Như vậy thì đâu là hành động của Như Lai vậy? Nếu là hành động thì là pháp sinh diệt, ví như bọt nước chóng khởi, chóng diệt, qua lại lưu chuyển giống như bánh xe. Tất cả các hành động cũng lại như vậy. Tôi nghe chư thiên thọ mạng rất dài thì sao đức Thế Tôn là đấng Thiên Trung Thiên (ông trời của trời) mà thọ mạng mau quá, chẳng đầy trăm năm? Ví như thế lực của vị chúa tụ lạc được tự tại. Do lực tự tại ông ấy có thể áp chế người khác. Người này hết phước, về sau nghèo hèn bị sự khinh miệt của mọi người, bị người khác sách nhiễu, sai khiến. Sở dĩ vì sao? Vì mất thế lực. Ðức Thế Tôn cũng vậy, đồng với các hành. Nếu người đồng các hành thì chẳng được xưng là đấng Thiên Trung Thiên. Vì sao vậy? Vì các hạnh tức là pháp sinh tử. Vậy nên, thưa ngài Văn Thù Sư Lợi! Ngài chớ quan sát đức Như Lai đồng với các hành.

Lại nữa, thưa ngài Văn Thù! Ngài vì biết mà nói hay chẳng biết mà nói rằng, đức Như Lai đồng với các hành. Giả sử đức Như Lai đồng các hành thì chẳng được nói rằng, ở trong ba cõi, đức Như Lai là đấng Pháp Vương Tự Tại Thiên Trung Thiên. Ví như vua loài người có vị đại lực sĩ, sức ông ấy đương đầu được một ngàn người, lại không có ai có thể hàng phục nên xưng lực sĩ này là một người đương cự được ngàn người. Như vậy lực sĩ được sự ái niệm của vua, được vua ban tước lộc, phong thưởng tự nhiên. Cho dù đã được xưng là người đương đầu được ngàn người thì sức người này chưa chắc địch được ngàn người mà họ chỉ dùng đủ thứ khả năng về kỹ nghệ để có thể thắng được ngàn người nên xưng là đương cự ngàn người. Ðức Như Lai cũng vậy, ngài hàng phục ma phiền não, ma ấm, ma trời, ma chết… Vậy nên đức Như Lai gọi là bậc tôn quí của ba cõi. Như vị lực sĩ kia, một người đương cự ngàn người. Do nhân duyên này, hoặc thành tựu đầy đủ thứ vô lượng công đức chân thật nên xưng là Như Lai Ứng Cúng Chánh Biến Tri… Thưa ngài Văn Thù Sư Lợi! Hôm nay ngài chẳng nên nhớ tưởng phân biệt pháp của đức Như Lai đồng với các hành. Ví như ông trưởng giả giàu to sinh con trai. Thầy tướng chiếm quẻ đứa con có tướng đoản thọ (vắn số). Cha mẹ nghe rồi biết đứa con ấy chẳng gánh vác được sự kế tục nối dõi gia đình nên lại chẳng ái trọng mà xem như cỏ rác. Phàm là người đoản thọ thì chẳng được sự kính niệm của Samôn, Bàlamôn, trai gái, lớn nhỏ.v.v… Giả sử nếu đức Như Lai đồng với các hành thì cũng lại chẳng được sự kính phụng của tất cả thế gian người, trời, chúng sinh. Ðức Như Lai đã nói, chẳng biến, chẳng khác, pháp chân thật, cũng không người thọ. Vậy nên, thưa ngài Văn Thù! Ngài chẳng nên nói rằng, đức Như Lai đồng với tất cả các hành.

Lại nữa, thưa ngài Văn Thù! Ví như người con gái nghèo không có nhà ở, không người cứu hộ, lại thêm sự bức bách của bệnh khổ, đói khát. Người này du hành xin, dừng ở nhà trọ, sinh nhờ một đứa con trai, bị chủ nhà trọ này xua đuổi đi. Người ấy bế đứa trẻ này muốn đến đất nước khác, nhưng ở giữa đường gặp phải mưa to gió dữ, lạnh khổ đều đến, bị nhiều muỗi, mòng, ong độc, trùng độc bâu cắn. Qua sông Hằng người con gái ấy ẳm con mà lội. Nước sông chảy nhanh mà người ấy chẳng buông con. Ðến đây thì mẹ con liền đều chung chết chìm. Như vậy nhờ công đức từ niệm, người con gái sau khi mạng chung, sinh lên cõi trời Phạm. Thưa ngài Văn Thù Sư Lợi! Nếu có thiện nam tử muốn hộ chánh pháp thì chớ nói Như Lai đồng với các hạnh hay chẳng đồng với các hạnh mà chỉ phải tự trách rằng, ta nay ngu si chưa có tuệ nhãn, chánh pháp của đức Như Lai chẳng thể nghĩ bàn. Vậy nên chẳng nên tuyên nói đức Như Lai nhất định là hữu vi hay nhất định là vô vi. Nếu người chánh kiến thì nên nói Như Lai nhất định là vô vi. Vì sao vậy? Vì có thể vì chúng sinh sinh ra thiện pháp, sinh ra thương xót như người con gái nghèo kia ở tại sông Hằng vì nghĩ yêu con mà bỏ thân mạng. Thưa thiện nam tử! Bồ tát hộ pháp cũng nên như vậy, thà bỏ thân mạng chứ chẳng nói đức Như Lai đồng với hữu vi mà phải nói rằng, đức Như Lai đồng với vô vi. Do nói đức Như Lai đồng với vô vi nên được Vô Thượng Chánh Ðẳng Chánh Giác, như người con gái nghèo kia được sinh lên cõi trời Phạm. Vì sao vậy? Vì hộ pháp vậy. Sao gọi là hộ pháp? Nghĩa là nói rằng, đức Như Lai đồng với vô vi. Thưa thiện nam tử! Người như vậy tuy chẳng cầu giải thoát mà giải thoát tự đến, như người con gái nghèo kia chẳng cầu Phạm thiên mà Phạm thiên tự ứng. Thưa ngài Văn Thù Sư Lợi! Như người đi xa, giữa đường quá mệt mỏi, ở nhờ nhà người khác, đang nằm ngủ trong nhà thì nhà ấy bỗng nhiên cháy lớn chợt khởi lên. Người ấy tức thời thức dậy liền tự suy nghĩ: “Ta đến hôm nay nhất định chết chẳng nghi ngờ gì!” Còn đủ xấu hổ nên người ấy lấy áo buộc thân mình, liền mạng chung sinh lên cõi trời Ðao Lợi. Từ đó về sau người ấy tám mươi lần trở lại làm vua trời Ðại Phạm, trọn trăm ngàn đời sinh ở trong loài người làm vua Chuyển Luân. Người đó chẳng còn sinh vào ba đường ác, đắp đổi thường sinh vào nơi yên vui. Do duyên này nên thưa ngài Văn Thù Sư Lợi! Nếu thiện nam tử có tàm quí thì chẳng nên xem đức Phật đồng với các hạnh! Thưa ngài Văn Thù Sư Lợi! Ngoại đạo tà kiến có thể nói đức Như Lai đồng với hữu vi. Nhưng Tỳkheo giữ giới thì chẳng nên ở chỗ đức Như Lai sinh tư tưởng hữu vi như vậy. Nếu nói rằng, đức Như Lai là hữu vi thì tức là nói dối và phải biết rằng, người này chết phải vào địa ngục như người tự ở nơi nhà cửa của mình. Thưa ngài Văn Thù Sư Lợi! Ðức Như Lai chân thật là pháp vô vi! Chẳng nên lại nói là hữu vi vậy. Ngài từ hôm nay, ở trong sinh tử, nên bỏ vô tri mà cầu nơi chánh trí! Phải biết đức Như Lai tức là vô vi. Nếu người có thể quan sát đức Như Lai như vậy thì sẽ ba mươi hai tướng đầy đủ, mau chóng thành Vô Thượng Chánh Ðẳng Chánh Giác!

Lúc bấy giờ, ngài Văn Thù Sư Lợi Pháp Vương Tử khen ông Thuần Ðà rằng:

– Hay thay! Hay thay! Này thiện nam tử! Hôm nay ông đã tạo tác nhân duyên trường thọ, có thể biết đức Như Lai là pháp thường trụ, pháp chẳng biến dị, pháp vô vi! Hôm nay ông như vậy là khéo che tướng hữu vi của đức Như Lai như người bị lửa vì xấu hổ nên dùng áo buộc thân. Do thiện tâm đó nên sinh lên trời Ðao Lợi, lại được làm Phạm Vương, Chuyển Luân Thánh Vương, chẳng đến đường ác, thường thọ yên vui. Ông cũng như vậy, khéo che tướng hữu vi của đức Như Lai nên ở đời vị lai nhất định sẽ được ba mươi hai tướng, tám mươi vẻ đẹp, đầy đủ mười tám pháp bất cộng, thọ mạng không lường, chẳng ở tại sinh tử, thường thọ yên vui, chẳng bao lâu được thành Ứng Cúng Chánh Biến Tri. Này ông Thuần Ðà! Ðức Như Lai tiếp theo sau, sẽ tự nói rộng rãi! Tôi cùng với ông đều cũng phải che hữu vi của đức Như Lai. Hữu vi, vô vi vã đặt chung đó, ông có thể tùy lúc mau chóng dâng thí cơm ăn! Thí như vậy là tối thắng trong các thí! Nếu Tỳkheo, Tỳkheo ni, ưu bà tắc, ưu bà di đi xa mệt mỏi cực nhọc thì những vật cần dùng nên phải thanh tịnh tùy lúc mà cấp cho họ. Bố thí nhanh chóng như vậy tức là đầy đủ chủng tử căn bản của Ðàn Balamật. Này ông Thuần Ðà! Nếu ông có lễ dâng thí tối hậu cho đức Phật và Tăng, hoặc nhiều hay ít, hoặc đủ hay chẳng đủ thì nên mau chóng kịp thời! Ðức Như Lai chính lúc bấy giờ sẽ vào Niết Bàn!

Ông Thuần Ðà đáp rằng:

– Thưa ngài Văn Thù Sư Lợi! Sao hôm nay ngài tham vì bữa ăn này mà nói nhiều, ít đủ cùng chẳng đủ, lệnh cho tôi kịp thời thí? Thưa ngài Văn Thù Sư Lợi! Ðức Như Lai ngày xưa, khổ hạnh sáu năm còn tự cố sức ứng phó huống gì là khoản giây lát ngày hôm nay vậy? Thưa ngài Văn Thù Sư Lợi! Ngài hôm nay thật cho là đức Như Lai Chánh Giác thọ bữa ăn ấy sao? Nhưng tôi thì nhất định biết là thân của đức Như Lai tức là pháp thân, chẳng phải là thân ăn!

Lúc bấy giờ, đức Phật bảo ngài Văn Thù Sư Lợi rằng:

– Ðúng vậy! Ðúng vậy! Ðúng như lời nói của ông Thuần Ðà! Hay thay! Này Thuần Ðà! Ông đã thành tựu đại trí vi diệu, khéo vào kinh điển Ðại Thừa thậm thâm!

Ngài Văn Thù Sư Lợi nói với ông Thuần Ðà rằng:

– Ông cho là Như Lai chính là vô vi thì thân đức Như Lai tức là trường thọ. Nếu tác khởi sự hiểu biết này thì đức Phật được vui lòng ưng ý sao?

Ông Thuần Ðà đáp rằng:

– Ðức Như Lai chẳng phải riêng vui lòng ưng ý đối với tôi mà cũng lại vui lòng ưng ý đối với tất cả chúng sinh.

Ngài Văn Thù Sư Lợi nói rằng:

– Ðức Như Lai đối với ông và cả với tôi… tất cả chúng sinh đều vui lòng ưng ý hết à?

Ông Thuần Ðà đáp rằng:

– Ngài chẳng nên nói rằng, đức Như Lai vui lòng ưng ý! Bàn về việc vui lòng ưng ý thì chính là đão tưởng. Nếu có đão tưởng thì chính là sinh tử. Có sinh tử tức là pháp hữu vi! Vậy nên, thưa ngài Văn Thù! Ngài chớ cho là Như Lai chính là hữu vi vậy. Nếu nói rằng, đức Như Lai là hữu vi thì tôi cùng ngài đều hành điên đảo. Thưa ngài Văn Thù Sư Lợi! Ðức Như Lai không có tư tưởng ái niệm! Bàn về ái niệm thì như con trâu sữa kia ái niệm con của nó nên tuy đói khát đi tìm nước, cỏ hoặc đủ hay chẳng đủ, bỗng nhiên quay trở về. Các đức Phật Thế Tôn không có ý niệm này mà bình đẳng xem tất cả như ông La Hầu La. Ý niệm như vậy thì tức là cảnh giới trí tuệ của chư Phật. Thưa ngài Văn Thù Sư Lợi! Ví như vị quốc vương điều xe ngự bốn ngựa mà muốn dong ruổi xe lừa khiến cho kịp bằng xe ấy thì không có chỗ này. Tôi cùng ngài cũng lại như vậy, muốn tận tường sự thâm áo vi mật của đức Như Lai thì cũng không có chỗ này. Thưa ngài Văn Thù Sư Lợi! Như con chim cánh vàng bay lên hư không cao vô lượng do tuần nhìn xuống biển cả thấy hết các loài thủy tánh như cá, ba ba, con giải, rùa biển, rồng biển… và thấy bóng của mình như đối với gương sáng thấy các sắc tượng. Kẻ phàm phu ít trí chẳng thể trù lượng sự thấy như vậy. Tôi cùng ngài cũng lại như vậy, chẳng thể trù lượng (trù tính đo lường) trí tuệ của đức Như Lai.

Ngài Văn Thù Sư Lợi nói với ông Thuần Ðà rằng:

– Ðúng vậy! Ðúng vậy! Ðúng như lời nói của ông! Ta đối với việc này chẳng phải là chẳng thông đạt mà tôi muốn trực tiếp thử thách những việc Bồ tát của ông!

Lúc bấy giờ, từ diện môn của đức Thế Tôn phát ra đủ thứ ánh sáng. Ánh sáng ấy soi sáng thân ngài Văn Thù. Ngài Văn Thù Sư Lợi gặp ánh sáng ấy rồi thì liền biết việc này mà bảo ông Thuần Ðà rằng:

– Ðức Như Lai hôm nay hiện tướng điềm đó thì chẳng bao lâu nhất định sẽ vào Niết Bàn. Ông trước đã thiết bày lễ cúng dường tối hậu nên tức thời dâng hiến đức Phật và đại chúng. Này ông Thuần Ðà! Ông phải biết rằng, đức Như Lai phóng ra đủ thứ ánh sáng đó chẳng phải không có nhân duyên.

Ông Thuần Ðà nghe rồi, buồn tê tái lặng lẽ. Ðức Phật bảo:

– Này Thuần Ðà! Việc phụng thí Phật và đại chúng của ông, nay chính là lúc đó! Như Lai chính lúc ấy sẽ vào Niết Bàn.

Nói lần thứ hai, lần thứ ba cũng lại như vậy. Bấy giờ, ông Thuần Ðà nghe lời đức Phật rồi, cất tiếng gào khóc bi thương, nghẹn ngào mà nói rằng:

– Khổ thay! Khổ thay! Thế gian trống rỗng!

Lại bạch với đại chúng rằng:

– Chúng con hôm nay, tất cả sẽ cùng gieo năm vóc xuống đất, đồng thanh khuyên đức Phật chớ vào Niết Bàn!

Lúc bấy giờ, đức Thế Tôn lại bảo ông Thuần Ðà:

– Ông chớ gào khóc lớn, tự làm loạn tâm mình! Ông phải xem thân này giống như cây chuối, như bọt nước nóng lúc sôi, huyễn hóa như thành của Càn thát bà, như đồ đất thô, như ánh chớp, cũng như vẽ xuống nước, như người tù sắp chết, như quả chín, như thịt bị chia cắt ra, như chỉ dọc máy dệt hết, như thớt trên, thớt dưới của cối giã… Ông phải quan sát các hạnh giống như đồ ăn tạp độc, pháp hữu vi nhiều những lỗi lầm hoạn nạn!

Ðến đây, ông Thuần Ðà lại bạch đức Phật rằng:

– Ðức Như Lai chẳng muốn ở lâu với đời thì con phải làm sao mà chẳng kêu khóc rằng: Khổ thay! Khổ thay! Thế gian trống rỗng! Nguyện xin đức Thế Tôn thương xót chúng con và các chúng sinh mà ở lâu với đời! Chớ vào Niết Bàn!

Ðức Phật bảo ông Thuần Ðà:

– Ông nay chẳng nên phát ra lời nói, thương xót con nên ở lâu với đời như vậy, ta vì thương xót ông và tất cả nên ngày hôm nay muốn vào Niết Bàn. Vì sao vậy? Vì các Phật pháp vậy! Hữu vi pháp cũng vậy! Vậy nên vì các đức Phật mà nói kệ này:

Pháp hữu vi ấy

Tính nó vô thường

Sinh rồi chẳng trụ

Tịch Diệt vui hơn.

Này Thuần Ðà! Ông nay phải quan sát tất cả hành tạp, các pháp vô ngã, vô thường, chẳng trụ. Thân này có nhiều lỗi hoạn không lường, giống như bọt nước. Vậy nên ông nay chẳng nên khóc gào.

Bấy giờ ông Thuần Ðà lại bạch đức Phật rằng:

– Ðúng vậy! Ðúng vậy! Quả đúng như lời dạy của đức Thế Tôn! Tuy biết đức Như Lai phương tiện thị hiệnvào Niết Bàn mà con chẳng thể chẳng ôm ưu não. Nhưng xét lại suy nghĩ của mình thì lại sinh ra mừng vui!

Ðức Phật khen ông Thuần Ðà:

– Hay thay! Hay thay! Ông có thể biết Như Lai thị hiện đồng với chúng sinh mà phương tiện vào Niết Bàn! Này Thuần Ðà! Ông nay hãy nghe, như loài chim Ta-la-ta vào tháng xuân dương (dưỡng khí mùa xuân) đều tập họp chung ở ao A-nậu-đạt đó. Các đức Phật cũng vậy, đều đến chỗ này. Này Thuần Ðà! Nay ông chẳng nên suy nghĩ các đức Phật trường thọ hay đoản thọ! Tất cả các pháp đều như tướng của huyễn, đức Như Lai ở trong dùng phương tiện lực, không bị nhiễm trước. Vì sao vậy? Vì các Phật pháp là vậy. Này Thuần Ðà! Ta nay thọ sự hiến cúng dường của ông là vì muốn khiến cho ông độ thoát sinh tử và các hữu lậu vậy. Nếu những người, trời đối với sự cúng dường ta lần sau cùng này đều sẽ được quả báo bất động, thường hưởng an vui. Vì sao vậy? Vì ta là ruộng phước tốt của chúng sinh. Nếu ông muốn vì các chúng sinh tạo tác phước điền thì mau chóng bày biện lễ phụng thí, chẳng nên đình lâu!

Lúc bấy giờ, ông Thuần Ðà vì muốn các chúng sinh được độ thoát nên cúi đầu nuốt lệ mà bạch đức Phật rằng:

– Hay thay! Thưa đức Thế Tôn! Nếu khi con đủ sức đảm nhận làm ruộng phưóc thì có thể rõ biết đức Như Lai Niết Bàn và chẳng phải Niết Bàn. Hôm nay chúng con và các Thanh Văn, Duyên Giác, trí tuệ giống như con muỗi con ve, thật chẳng thể đo lường được Như Lai Niết Bàn và chẳng phải Niết Bàn.

Lúc bấy giờ, ông Thuần Ðà và quyến thuộc ưu sầu, gào khóc, vây quanh đức Như Lai, đốt hương, tung hoa, hết lòng phụng kính, rồi liền cùng với Văn Thù đứng dậy mà đi cung cấp, bày biện đồ ăn.

3. PHẨM AI THÁN!

Ông Thuần Ðà đi rồi, chưa bao lâu thì lúc đó đất này sáu thứ chấn động… cho đến cõi Phạm cũng lại như vậy. Ðất động có hai, hoặc có địa động hoặc đại địa động. Ðộng nhỏ thì gọi là địa động. Ðộng lớn thì gọi là đại địa động. Có tiếng nhỏ thì gọi là địa động. Có tiếng lớn thì gọi là đại địa động. Ðộng riêng đất thì gọi là địa động. Ðộng tất cả núi rừng sông biển thì gọi là đại địa động. Ðộng một hướng thì gọi là địa động. Xoay chuyển khắp cùng thì gọi là đại địa động. Ðộng gọi là địa động. Khi động có thể khiến cho lòng chúng sinh động gọi là đại địa động. Khi Bồ tát mới từ cõi trời Ðâu Suất xuống cõi Diêm phù đề thì gọi là đại địa động. Bồ tát từ sơ sinh xuất gia, thành Vô Thượng Chánh Ðẳng Chánh Giác, chuyển bánh xe chánh pháp và vào Niết Bàn thì gọi là đại địa động. Ngày hôm nay, đức Như Lai sẽ vào Niết Bàn nên đất này động lớn như vậy. Các trời, rồng, càn thát bà, a tu la, ca lâu la, khẩn na la, ma hầu la già, người và chẳng phải người nghe lời nói này rồi thì thân đều nổi da gà, đồng thanh buồn khóc mà nói kệ rằng:

Cúi đầu đấng Ðiều Ngự

Chúng con nay mời khuyên

Xa lìa bậc nhân tiên

Mãi không có cứu hộ.

Nay thấy Phật Niết Bàn

Chúng con chìm bể khổ

Bi luyến ôm lo buồn

Như trâu nghé mất mẹ.

Không ai cứu bần cùng

Giống như người bệnh khốn

Không thầy thuốc tùy lòng

Ăn cái chẳng nên ăn

Chúng sinh bệnh phiền não

Bị các kiến hại luôn

Xa lìa vua thuốc pháp

Uống độc dược tà môn

Vậy nên Phật Thế Tôn

Chẳng nên thấy bỏ sót

Như nước không chủ quân (vua)

Nhân dân đều cơ cẩn.

Cũng như vậy, chúng con

Mất bóng che, vị pháp (mùi vị pháp)

Nay nghe Phật Niết Bàn

Lòng chúng con mê loạn

Như đại địa động rung

Mê mất các phương hướng.

Ðại tiên vào Niết Bàn

Phật nhật (mặt trời Phật) rơi xuống đất

Nước pháp(pháp thủy) đều khô khan

Chúng con nhất định chết

Như Lai vào Niết Bàn

Chúng sinh rất khổ não

Như con ông trưởng giả

Với cha mẹ, mới chôn

Như Lai vào Niết Bàn

Như con chẳng sống lại.

Chúng sinh và chúng con

Ðều không người cứu hộ.

Như Lai vào Niết Bàn

Cho đến súc sinh loại

Tất cả đều lo buồn

Khổ não cháy lòng ấy.

Ngày hôm nay, chúng con

Làm sao chẳng sầu não

Như Lai thấy bỏ buông

Giống như nhổ nước bọt.

Như mặt trời mọc lên

Ánh sáng rất sáng rỡ

Có thể soi lại mình

Cũng diệt tất cả tối

Như Lai thần thông quang

Hay trừ con khổ não

Ở trong đại chúng đó

Ngài như Tu Di Sơn.

Thưa đức Thế Tôn! Ngài ví như vị quốc vương sinh ra nuôi nấng các con hình mạo đoan chính, lòng thường ái niệm. Trước ngài dạy kỹ nghệ khiến cho chúng đều thông minh linh lợi. Nhiên hậu ngài bỏ họ phó thác cho Chiên đà la. Thưa đức Thế Tôn! Chúng con ngày hôm nay làm con của vua pháp, nhờ đức Phật dạy bảo đã đủ Chánh kiến, nguyện xin ngài chớ buông bỏ. Như ngài buông bỏ chúng con thì đồng với các vương tử. Nguyện xin đức Phật trụ lại lâu dài, chẳng vào Niết Bàn. Thưa đức Thế Tôn! Ví như có người học giỏi các luận, nhưng lại đối với các luận này mà phát sinh kinh sợ. Ðức Như Lai cũng vậy, chúng con thông đạt các pháp mà đối với các pháp lại sinh ra kinh sợ. Giả sử nếu đức Như Lai ở lâu với đời, nói vị cam lồ làm sung túc cho tất cả. Như vậy thì chúng sinh chẳng sợ rơi vào địa ngục nữa. Thưa đức Thế Tôn! Ví như có người mới học làm việc bị quan bắt nhốt vào ngục tù. Có người hỏi nó rằng: “Ngươi thọ việc gì?” Nó đáp: “Tôi nay chịu ưu khổ lớn!” Nếu người ấy được giải thoát thì được yên vui. Ðức Thế Tôn cũng vậy, ngài vì chúng con nên tu những hạnh khổ mà nay chúng con còn chưa được khỏi khổ não sinh tử thì làm sao đức Như Lai được hưởng an vui? Thưa đức Thế Tôn! Ví như vị y vương giỏi lý giải phương thuốc, thiên (lệch) dùng bí phương (phương thuốc bí mật) dạy trao cho con mình, ngoài ra chẳng dạy phương thuốc ấy cho người ngoài thọ học. Ðức Như Lai cũng vậy, ngài riêng đem pháp tạng bí mật thậm thâm dạy cho một mình ngài Văn Thù, bỏ sót chúng con, chẳng thấy đức Phật đoái hoài thương xót. Ðức Như Lai đối với pháp nên không bí mật tiếc rẻ như vị y vương kia thiên lệch dạy cho con mình, chẳng dạy cho người ngoài đến thọ học. Vị y vương sở dĩ chẳng thể dạy khắp là vì tình còn hơn thua nên còn có bí mật tiếc rẻ. Tâm của đức Như Lai nhất định không hơn thua thì vì sao chẳng thấy ngài dạy bảo như vậy? Nguyện xin đức Như Lai ở lâu với đời chớ vào Niết Bàn! Thưa đức Thế Tôn! Ví như người già ít bệnh khổ lìa bỏ con đường bằng mà đi vào đường nguy hiểm. Ðường hiểm nhiều khó khăn, chịu đủ mọi thứ khổ. Lại có người khác thấy họ mà thương xót liền bày ra con đường bằng phẳng đẹp đẽ. Thưa đức Thế Tôn! Con cũng như vậy. Sở dĩ nói ít là dụ cho người chưa tăng trưởng pháp thân. Sở dĩ nói già là dụ cho phiền não nặng. Sở dĩ nói bệnh khổ là ví cho chưa thoát khỏi sinh tử. Sở dĩ nói đường hiểm là dụ cho hai mươi lăm cõi. Nguyện xin đức Như Lai bày đường dẫn lối cho chúng con đi vào con đường cam lồ chân chánh. Xin ngài ở lâu với đời, chớ vào Niết Bàn!

Lúc bấy giờ, đức Thế Tôn bảo các Tỳkheo rằng:

– Này các Tỳkheo! Các ông chớ như những người, trời.v.v… phàm phu mà lo buồn kêu khóc! Các ông phải siêng năng tinh tấn ràng buộc lòng vào chánh niệm!

Những trời, người, atula.v.v… nghe lời nói của đức Phật thì dừng lại, chẳng kêu khóc nữa, giống như có người làm đám tang đứa con yêu của mình, đưa đi chôn cất xong rồi, nén lòng dừng chẳng khóc nữa. Lúc bấy giờ, đức Thế Tôn vì các đại chúng mà nói kệ rằng:

Ý các ông sẽ thông

Chẳng nên sầu khổ lắm

Pháp Phật đều vậy nên

Các ông phải lặng lẽ

Ưa hạnh chẳng buông lung

Giữ lòng ức niệm chánh

Các phi pháp lìa xong

Tự an ủi thọ lạc.

Lại nữa, này các Tỳkheo! Nếu các ông có sự nghi hoặc thì hôm nay đều phải hỏi! Hoặc không hay chẳng không, hoặc thường hay vô thường, hoặc khổ hay chẳng khổ, hoặc nương (y) hay chẳng nương, hoặc đi hay chẳng đi, hoặc về hay chẳng phải về, hoặc hằng hay chẳng phải hằng, hoặc đoạn hay thường, hoặc chúng sinh hay chẳng phải chúng sinh, hoặc có hay không, hoặc thật hay chẳng thật, hoặc chân hay chẳng chân, hoặc diệt hay chẳng diệt, hoặc mật hay chẳng mật, hoặc hai hay chẳng hai… Trong đủ thứ pháp như vậy.v.v… có điều gì nghi hoặc thì hôm nay nên hỏi han tìm hiểu. Ta sẽ tùy thuận vì các ông đoạn trừ các nghi hoặc đó cho! Ta cũng sẽ vì các ông trước nói pháp cam lộ rồi nhiên hậu mới sẽ vào Niết Bàn. Này các Tỳkheo! Phật ra đời khó, thân người khó được, gặp Phật sinh niềm tin thì việc này cũng khó, hay nhẫn là khó, nhẫn được việc này cũng lại khó, thành tựu cấm giới đầy đủ không khiếm khuyết được quả Alahán thì việc này cũng khó như cầu cát vàng, hoa Ưu đàm bát. Này các Tỳkheo! Các ông lìa khỏi tám nạn được thân người là khó. Các ông gặp được ta chẳng nên luống qua! Ta thuở xa xưa, tu đủ thứ hạnh khổ, nay được phương tiện Vô thượng như vậy. Vì các ông nên trong vô lượng kiếp xả bỏ thân, tay, chân, đầu, mắt, não, tủy… Vậy nên các ông chẳng nên buông lung! Này Tỳkheo các ông! Sao gọi là trang nghiêm ngôi thành báu chánh pháp đầy đủ các thứ công đức trân bảo? – Dùng Giới, Ðịnh và Trí tuệ làm tường vách, hào nước! Các ông hôm nay gặp được ngôi thành báu Phật pháp này thì chẳng nên chọn lấy vật hư ngụy này! Ví như vị thương chủ gặp được ngôi thành trân bảo mà chọn lấy những sành sỏi đem về nhà. Các ông cũng như vậy, gặp được ngôi thành báu mà chọn lấy vật hư ngụy. Này Tỳkheo! Các ông chớ vì hạ tâm mà sinh ra biết đủ! Các ông hôm nay tuy được xuất gia nhưng đối với Ðại Thừa này chẳng phát sinh tham mộ. Này các Tỳkheo! Các ông tuy thân được mặc cà sa nhiễm y nhưng lòng còn chưa nhiễm pháp Ðại Thừa thanh tịnh. Này các Tỳkheo! Các ông tuy đi khất thực trải qua nhiều nơi nhưng trước hết chưa từng cầu pháp thực Ðại Thừa. Này các Tỳkheo! Các ông tuy cạo bỏ râu tóc nhưng chưa vì chánh pháp trừ bỏ các kết sử. Này các Tỳkheo! Hôm nay ta sẽ chân thật dạy bảo các ông! Ta nay hiện tại đại chúng hòa hợp, pháp tính của Như Lai chân thật chẳng điên đảo. Vậy nên các ông cần phải tinh tấn nhiếp lấy tâm, dũng mãnh tiêu diệt các kết sử. Mặt trời tuệ mười lực ẩn mất rồi nên các ông sẽ bị sự che phủ của vô minh. Này các Tỳkheo! Ví như đất đai, các núi, thảo dược được chúng sinh sử dụng. Pháp của ta cũng vậy, sinh ra vị pháp cam lộ diệu thiện mà làm thuốc hay chữa đủ thứ bệnh phiền não của chúng sinh. Ta nay sẽ khiến cho tất cả chúng sinh và các con của ta, bốn bộ chúng, đều an trụ trong bí mật tạng. Ta cũng lại sẽ an trụ trong đó mà vào Niết Bàn. Những gì gọi là bí mật tạng? Giống như chư y, ba điểm nếu bằng thì chẳng thành y, dọc cũng chẳng thành (?). Như ba mắt trên mặt của Ma Ê Thủ La mới được thành y. Ba điểm nếu khác biệt cũng chẳng được thành. Ta cũng như vậy, pháp giải thoát cũng chẳng phải Niết Bàn, thân Như Lai cũng chẳng phải Niết Bàn, Maha Bát Nhã cũng chẳng phải Niết Bàn. Ba pháp đều khác, cũng chẳng phải Niết Bàn. Ta nay an trụ ba pháp như vậy vì chúng sinh nên gọi là vào Niết Bàn, như chữ y của đời.

Lúc bấy giờ, các vị Tỳkheo nghe đức Phật Thế Tôn nhất định sẽ Niết Bàn đều lo buồn, thân nổi da gà, rơi nước mắt chan hòa, cúi đầu dưới chân đức Phật, nhiễu quanh vô lượng vòng, bạch đức Phật rằng:

– Thưa đức Thế Tôn! Con thích nói về Vô thường, Khổ, Không, Vô ngã. Thưa đức Thế Tôn! Ví như, trong dấu chân của tất cả chúng sinh thì dấu chân voi là trên. Vô thường tưởng này cũng lại như vậy, ở trong các tưởng, nó là tối đệ nhất. Nếu có người tinh cần tu tập thì có thể trừ được tất cả tham ái của dục giới ái, vô minh, kiêu mạn và vô thường tưởng của sắc giới, vô sắc giới. Thưa đức Thế Tôn! Ðức Như Lai nếu lìa khỏi vô thường tưởng thì hôm nay chẳng nên vào Niết Bàn. Nếu chẳng lìa khỏi thì sao nói rằng, tu vô thường tưởng thì lìa khỏi ái, vô minh, kiêu mạn và vô thường tưởng của ba cõi. Thưa đức Thế Tôn! Ví như nhà nông vào thời tiết tháng mùa thu, cày sâu đất của mình thì có thể trừ hết cỏ xấu. Vô thường tưởng này cũng lại như vậy, có thể trừ tất cả tham ái của Dục giới, ái, vô minh, kiêu mạn và vô thường tưởng của Sắc giới và Vô sắc giới. Thưa đức Thế Tôn! Ví như cày ruộng thì cày vào mùa thu là thượng sách, như trong các dấu chân thì dấu chân voi là to nhất, ở trong các tưởng thì vô thường tưởng là trên hết. Thưa đức Thế Tôn! Ví như vị đế vương biết mạng mình sắp hết nên ân xá cho thiên hạ. Những người bị ngục tù, trói buộc, giam giữ đều khiến cho giải thoát. Nhiên hậu nhà vua mới bỏ mạng. Ðức Như Lai hôm nay cũng nên như vậy. Ngài độ cho các chúng sinh, những kẻ vô tri, vô minh, bị trói buộc giam giữ đều khiến cho giải thoát, rồi nhiên hậu vào Niết Bàn. Chúng con hôm nay đều chưa được độ thì làm sao đức Như Lai lại muốn buông bỏ mà vào Niết Bàn? Thưa đức Thế Tôn! Ví như có người bị quỉ ám (nắm giữ) gặp được thầy bùa chú giỏi. Nhờ sức chú nên họ liền được trừ bớt. Ðức Như Lai cũng vậy, vì các Thanh Văn trừ quỉ vô minh, khiến cho được an trụ ở pháp Ðại Bát Nhã giải thoát.v.v… như chữ thế y (?). Thưa đức Thế Tôn! Ví như con hương tượng (một loài voi) bị người bắt trói. Tuy có thầy giỏi nhưng chẳng thể cấm chế, nó phá tan kềm tỏa mà đi theo ý của mình. Chúng con chưa thoát khỏi năm mươi bảy phiền não trói buộc mà sao đức Như Lai liền muốn buông bỏ, vào với Niết Bàn? Thưa đức Thế Tôn! Như người bị bệnh sốt rét gặp được thầy thuốc giỏi thì sự khổ được trừ tiêu. Chúng con cũng như vậy, có nhiều những khổ hoạn, tà mạng, nhiệt bệnh… tuy gặp được đức Như Lai, nhưng bệnh chúng con chưa trừ khỏi, chưa được thường lạc yên ổn vô thượng thì sao đức Như Lai liền muốn buông bỏ mà vào với Niết Bàn. Thưa đức Thế Tôn! Ví như người say rượu chẳng tự hay biết, chẳng nhận thức được thân sơ, mẹ, con gái, chị em… mà mê mang dâm loạn, nói năng buông thả, nằm trong chỗ bất tịnh. Có thầy giỏi cho thuốc bảo uống. Uống xong, người ấy mữa ra, trở lại tự nhớ biết, lòng mang xấu hổ, tự khắc phục quở trách sâu sắc. Rượu là cội rễ của các ác, bất thiện, nếu có thể đoạn trừ thì xa được mọi tội lỗi. Thưa đức Thế Tôn! Con cũng như vậy, từ xưa đến nay luân chuyển trong sinh tử, đắm say tình sắc, ham thích ngũ dục, chẳng phải mẹ tưởng mẹ, chẳng phải chị tưởng chị, chẳng phải con gái tưởng con gái, với chẳng phải chúng sinh sinh ra chúng sinh tưởng. Vậy nên luân chuyển chịu khổ sinh tử như người say kia nằm trong bất tịnh. Ðức Như Lai hôm nay sẽ bố thí cho con thuốc pháp, khiến cho con trở lại mữa ra rượu ác phiền não mà con chưa được tâm tỉnh thức thì sao đức Như Lai liền muốn buông bỏ, vào với Niết Bàn. Thưa đức Thế Tôn! Ví như có người khen cây chuối là chắc thật thì không có chỗ này. Thưa đức Thế Tôn! Chúng sinh cũng vậy, nếu khen ngã, nhân, chúng sinh, thọ mạng, dưỡng dục, tri kiến, tác giả, thọ giả… là chân thật thì cũng không có chỗ đó! Chúng con tu vô ngã tưởng như vậy. Thưa đức Thế Tôn! Ví như nước uống cặn đục không ai lại dùng. Thân này cũng vậy, vô ngã, vô chủ. Thưa đức Thế Tôn! Như hoa bảy cánh không có mùi hương. Thân này cũng vậy, vô ngã, vô chủ. Chúng con như vậy lòng thường tu tập vô ngã tưởng. Như đức Phật đã nói, tất cả các pháp không ngã và ngã sở, các Tỳkheo nên thường tu tập. Tu tập như vậy rồi thì trừ được ngã mạn. Lìa ngã mạn rồi thì liền vào Niết Bàn. Thưa đức Thế Tôn! Ví như dấu vết chim ở trong hư không hiện ra thì không có chỗ này! Có thể tu tập vô ngã tưởng mà có các kiến thì cũng không có chỗ này!

Lúc bấy giờ, đức Thế Tôn khen các Tỳkheo rằng:

– Hay thay! Hay thay! Các ông giỏi có thể tu tập vô ngã tưởng!

Các vị Tỳkheo liền bạch đức Phật rằng:

– Thưa đức Thế Tôn! Chúng con chẳng những chỉ tu tập vô ngã tưởng mà cũng lại tu tập các tưởng khác nữa! Như là khổ tưởng, vô thường tưởng.v.v… Thưa đức Thế Tôn! Ví như người say rượu, lòng họ mê loạn, nhìn thấy những núi sông, thành quách, cung điện, mặt trời, mặt trăng, tinh tú… đều xoay chuyển. Thưa đức Thế Tôn! Nếu có người chẳng tu tập khổ tưởng, vô thường tưởng, vô ngã tưởng.v.v… thì người như vậy chẳng gọi là Thánh mà nhiều những buông lung, lưu chuyển sinh tử. Thưa đức Thế Tôn! Do nhân duyên này nên chúng con khéo tu tập những tưởng như vậy.

Lúc bấy giờ, đức Phật bảo các Tỳkheo rằng:

– Hãy lắng nghe! Lắng nghe! Các ông hướng về sự dẫn dụ người say rượu. Các ông chỉ biết nó về mặt văn tự, chưa đạt đến ý nghĩa của ví dụ ấy. Như người say rượu kia thấy, mặt trời mặt trăng ở trên, thật sự chẳng phải xoay chuyển mà sinh ra tưởng xoay chuyển. Chúng sinh cũng vậy, họ bị các phiền não, vô minh che phủ nên sinh ra lòng điên đảo: Ngã cho là vô ngã, thường cho là vô thường, tịnh cho là bất tịnh, vui cho là khổ…Do bị sự che phủ của phiền não nên tuy sinh ra tưởng này nhưng chẳng đạt được ý nghĩa của chúng, như người say rượu kia đối với việc chẳng phải xoay chuyển mà sinh tưởng chuyển. Ngã tức là Phật nghĩa, thường tức là pháp thân nghĩa, lạc tức là Niết Bàn nghĩa, tịnh tức là pháp nghĩa. Này các Tỳkheo! Vì sao mà nói rằng, có ngã tưởng thì kiêu mạn, cống cao, lưu chuyển sinh tử? này các ông! Nếu nói rằng, ngã cũng tu tập vô thường tưởng, khổ tưởng, vô ngã tưởng thì ba thứ tu này không có thật nghĩa. Ta nay sẽ nói ba pháp tu thù thắng. Khổ thì cho là vui, vui thì cho là khổ đó là pháp điên đảo. Vô thường cho là thường, thường cho là vô thường đó là pháp điên đảo. Vô ngã cho là ngã, ngã cho là vô ngã đó là pháp điên đảo. Bất tịnh cho là tịnh, tịnh cho là bất tịnh đó là pháp điên đảo. Có bốn pháp điên đảo như vậy thì người này chẳng biết chánh tu các pháp. Này Tỳkheo các ông! Ở trong pháp khổ mà sinh ra lạc tưởng; ở trong vô thường mà sinh ra thường tưởng; ở trong vô ngã mà sinh ra ngã tưởng; ở trong bất tịnh mà sinh ra tịnh tưởng. Thế gian cũng có Thường – Lạc – Ngã – Tịnh, xuất thế gian cũng có Thường – Lạc – Ngã – Tịnh. Pháp thế gian thì có chữ không có nghĩa. Pháp xuất thế gian thì có chữ, có nghĩa. Vì sao vậy? Vì pháp thế gian có bốn điên đảo nên chẳng biết nghĩa. Sở dĩ vì sao? Vì có tưởng điên đảo, tâm điên đảo, kiến điên đảo. Do ba điên đảo nên người thế gian trong vui thấy khổ, trong thường thấy vô thường, trong ngã thấy vô ngã, trong tịnh thấy bất tịnh. Ðó gọi là điên đảo. Do điên đảo nên thế gian biết chữ mà chẳng biết nghĩa. Những gì là nghĩa? – Vô ngã tức là sinh tử, ngã tức là Như Lai. Vô thường là Thanh Văn, Duyên Giác, thường là pháp thân của Như Lai. Khổ là tất cả ngoại đạo, lạc tức là Niết Bàn. Bất tịnh tức là pháp hữu vi, tịnh là chánh pháp sở hữu của các đức Phật Bồ tát. Ðó gọi là chẳng điên đảo. Do chẳng điên đảo nên biết chữ, biết nghĩa. Nếu người muốn xa lìa bốn điên đảo thì nên biết Thường – Lạc – Ngã – Tịnh như vậy.

Các vị Tỳkheo bạch đức Phật rằng:

– Thưa đức Thế Tôn! Như đức Phật đã nói, lìa bốn điên đảo thì được biết rõ Thường – Lạc – Ngã – Tịnh, đức Như Lai hôm nay vĩnh viễn không có bốn điên đảo thì đã rõ biết Thường – Lạc – Ngã – Tịnh. Nếu đã rõ biết Thường – Lạc – Ngã – Tịnh thì vì sao đức Như Lai chẳng trụ một kiếp hay nữa kiếp để dạy bảo, dẫn đường chúng con khiến cho chúng con lìa khỏi bốn điên đảo mà lại buông bỏ chúng con, muốn vào Niết Bàn. Ðức Như Lai nếu đoái hoài nghĩ đến, dạy bảo thì chúng con sẽ hết lòng, thọ lĩnh để tu tập. Ðức Như Lai nếu phải vào Niết Bàn thì chúng con làm sao cùng với tấm thân độc hại này đồng chung dừng ở tu tập phạm hạnh? Chúng con cũng sẽ theo đức Phật Thế Tôn vào với Niết Bàn!

Lúc bấy giờ, đức Phật bảo các Tỳkheo rằng:

– Các ông chẳng nên nói ra lời như vậy! Chánh pháp vô thượng sở hữu của ta hôm nay đều đem phú chúc cho ông Ma Ha Ca Diếp. Ông Ca Diếp này sẽ vì các ông làm đại y chỉ, giống như Như Lai vì các chúng sinh làm chỗ y chỉ. Ông Ma Ha Ca Diếp cũng lại như vậy, sẽ vì các ông làm chỗ y chỉ. Ví như vị đại vương thống lĩnh nhiều việc. Nếu khi đi tuần du thì đem hết việc nước phú chúc cho vị đại thần. Như Lai cũng vậy, cũng đem chánh pháp sở hữu mà phú chúc cho ông Ma Ha Ca Diếp. Các ông phải biết, trước tiên việc tu tập Vô thường tưởng, Khổ tưởng chẳng phải là chân thật. Ví như vào mùa xuân có những người ở tại ao lớn, tắm rửa, ngồi thuyền dạo chơi, làm rớt báu lưu ly chìm sâu trong nước. Lúc đó, mọi người đều cùng vào trong nước tìm kiếm bảo vật này. Họ đua nhau bắt lấy ngói, đá, cỏ cây, cát sỏi mà mỗi mỗi đều tự cho là được ngọc lưu ly, vui mừng mang ra khỏi nước, mới biết chẳng phải thật. Lúc đó ngọc báu còn ở trong nước, do sức của ngọc nên nước đều lắng trong. Ðến đây, đại chúng mới thấy ngọc báu còn ở dưới nước giống như ngước xem hình dáng vầng trăng trong hư không. Lúc đó, trong chúng có một người trí dùng sức phương tiện, từ từ vào trong nước, liền lấy được ngọc. Này Tỳkheo! Các ông chẳng nên như vậy tu tập Vô thường tưởng, Khổ tưởng, Vô ngã tưởng, Bất tịnh tưởng.v.v… mà lấy làm thật nghĩa, như những người kia đều lấy ngói, đá, cỏ cây, cát sỏi mà làm ngọc báu. Các ông cần phải giỏi học phương tiện để tại khắp nơi nơi luôn luôn tu tập Ngã tưởng, Thường tưởng, Lạc tưởng, Tịnh tưởng. Các ông lại cần phải biết trước tiên việc tu tập là tướng mạo của bốn pháp đều là điên đảo. Người muốn được chân thân tu các tưởng thì phải như người trí kia, khéo léo tìm ra ngọc báu, gọi là Ngã tưởng, Thường tưởng, Lạc tưởng, Tịnh tưởng.

Lúc bấy giờ, các vị Tỳkheo bạch đức Phật rằng:

– Thưa đức Thế Tôn! Như đức Phật trước đã nói, các pháp vô ngã, các ông phải tu học, tu học đó rồi thì lìa khỏi ngã tưởng, lìa khỏi ngã tưởng thì lìa kiêu mạn, lìa kiêu mạn thì được vào Niết Bàn. Ðó là ý nghĩa ra sao?

Ðức Phật bảo các Tỳkheo rằng:

– Hay thay! Hay thay! Hôm nay, các ông có thể hỏi han ý nghĩa này là đã tự đoạn nghi hoặc rồi. Ví như vị quốc vương tối tăm, đần độn, ít trí có một người thầy thuốc, tính khí lại ngang ngạnh tự đắc mà nhà vua chẳng riêng ban cho bổng lộc hậu. Ông ấy trị liệu mọi bệnh thuần dùng thuốc sữa, cũng lại chẳng biết căn nguyên của sự khởi bệnh. Tuy ông biết thuốc sữa nhưng lại chẳng khéo giải trừ bệnh phong lãnh nhiệt (cảm sốt). Tất cả các bệnh ông đều dạy uống sữa. Vị vua này chẳng phân biệt được vị thầy thuốc đó biết sữa tốt xấu, lành dữ. Lại có vị thầy thuốc sáng suốt, thông hiểu tám thứ thuật, giỏi trị liệu mọi bệnh, biết các phương thuốc, từ phương xa đến. Lúc đó người thầy thuốc cũ chẳng biết học hỏi, trái lại sinh lòng cống cao, khinh mạn. Lúc đó vị thầy thuốc sáng suốt liền cận kề thỉnh làm thầy, hỏi han pháp bí ảo của y phương và nói với người thầy thuốc cũ rằng: “Tôi nay thỉnh ngài làm sư phạm! Nguyện xin ngài vì tôi tuyên xướng, giải nói!”. Người thầy thuốc cũ đáp rằng: “Ông nay nếu có thể làm kẻ sai bảo cho ta bốn mươi tám năm thì nhiên hậu ta mới sẽ dạy cho ông y pháp!” Lúc đó vị thầy thuốc sáng suốt liền nhận lời dạy ấy mà nói rằng: “Tôi sẽ như vậy! Tôi sẽ như vậy! Tùy theo sở năng của tôi, tôi sẽ cung cấp và chịu sự sai khiến của ngài”. Lúc đó, người thầy thuốc cũ liền đem vị khách y cùng vào yết kiến nhà vua. Lúc đó vị khách y liền vì nhà vua nói đủ thứ y phương và các kỹ nghệ khác rằng: “Thưa Ðại vương! Ngài phải biết rằng, nên khéo phân biệt: pháp này như vậy có thể dùng trị nước! Pháp này như vậy có thể dùng chữa bệnh!”. Bấy giờ, vị quốc vương nghe lời nói này rồi mới biết người thầy thuốc cũ si ám vô trí nên liền đuổi đi, lệnh cho ra khỏi quốc giới, rồi nhiên hậu cung kính vị khách y bội phần. Khi đó vị khách y tác khởi ý niệm rằng: “Muốn giáo hóa nhà vua thì hôm nay chính là lúc”. Ông liền nói với nhà vua rằng: “Thưa Ðại vương! Ðối với tôi nếu ngài thật sự ái niệm thì tôi sẽ yêu cầu ngài một nguyện vọng”.

Nhà vua liền đáp rằng:

– Từ vai phải này và bộ phận khác của thân thể, theo ý cầu xin của ông, tôi đều cho tất cả.

Vị khách y đó nói rằng:

– Nhà vua tuy hứa cho tôi tất cả bộ phận thân thể, nhưng tôi chẳng dám có sự cầu xin nhiều. Việc cầu xin của tôi hôm nay là, nguyện xin đức vua truyền lệnh cho tất cả trong nước, từ nay về sau chẳng được uống thuốc sữa của vị thầy thuốc cũ. Sở dĩ vì sao? Vì thuốc đó độc hai gây nhiều thương tổn. Nếu ai còn uống thì sẽ chém đầu. Ðoạn dứt thuốc sữa rồi, nhất định không có người chết oan uổng nữa mà thường sống yên vui nên tôi cầu xin nguyện vọng đó!

Nhà vua đáp rằng:

– Sự cầu xin của ông chừng như chẳng đủ lời!

Nhà vua liền vì ông ấy tuyên lệnh cho tất cả trong nước, phàm những người bệnh đều chẳng được phép lấy sữa làm thuốc. Nếu ai lấy nó làm thuốc thì sẽ bị chặt đầu.

Lúc bấy giờ, vị khách y hòa hợp mọi thứ thuốc, như là các vị cay, đắng, mặn, ngọt, chua.v.v… để trị liệu mọi bệnh thì không bệnh gì chẳng khỏi. Sau đó chẳng bao lâu, nhà vua lại bị bệnh, liền ra lệnh cho vị thầy thuốc này: “Ta nay bệnh khốn phải điều trị làm sao?” Vị thầy thuốc xem bệnh nhà vua rồi thấy nên dùng thuốc sữa, liền tâu với vua rằng:

– Như theo bệnh của nhà vua thì cần phải uống sữa. Việc đoạn dứt thuốc sữa lúc trước của tôi là chẳng phải lời nói thật. Hôm nay, nếu ngài uống thì bệnh rất có thể trừ được bệnh. Bệnh nóng sốt của nhà vua hôm nay chính nên uống sữa!

Nhà vua nói với vị thầy thuốc rằng:

– Ông nay điên hay sao? Bị bệnh sốt ư? Mà nói uống sữa có thể trừ được bệnh này. Trước đây ông bảo là độc, nay sao lại bảo uống? Muốn lừa dối ta sao? Thầy thuốc trước khen sữa, còn ông cho rằng nó độc, khiến ta đuổi ông ấy đi. Hôm nay ông lại cho rằng sữa rất tốt có thể trừ bệnh. Như lời nói của ông thì người thầy thuốc cũ của ta nhất định là hơn ông.

Lúc đó vị khách y lại nói với vua rằng:

– Nhà vua nay chẳng nên nói lời như vậy! Như loài trùng ăn gỗ tạo thành chữ thì loài trùng này chẳng biết là chữ hay chẳng phải chữ. Kẻ trí thấy chữ đó chẳng cho rằng loài trùng này hiểu được chữ, cũng chẳng kinh ngạc, quái lạ. Ðại vương phải biết, vị cựu y cũng vậy, ông chẳng phân biệt được các bệnh mà đều cho thuốc sữa như đường ăn gỗ của loài trùng kia ngẫu nhiên thành chữ. Vị cựu y lúc trước này chẳng hiểu biết sự tốt xấu thiện ác của thuốc sữa.

Nhà vua hỏi rằng:

– Sao gọi là chẳng hiểu biết?

Vị khách y đáp nhà vua rằng:

– Thuốc sữa đó cũng là độc hại, cũng là cam lộ. Sao gọi sữa đó là cam lộ? Nếu con trâu lấy sữa này chẳng ăn cặn rượu, cỏ trụi, rơm rạ, nghé con của nó điều phục, thuần tính, bãi chăn thả chẳng ở tại vùng cao, cũng chẳng ở dưới thấp ẩm ướt, uống bằng nước trong, chẳng dong ruổi đuổi chạy, chẳng cho trâu nghé ở chung bầy, ăn uống điều hòa thích hợp, đi đứng được chỗ thì sữa của con trâu như vậy có thể trừ các bệnh. Sữa đó gọi là cam lồ diệu dược. Trừ loại sữa đó ra, còn tất cả đều gọi là độc hại.

Bấy giờ, vị đại vương nghe lời nói đó rồi liền khen rằng:

– Này đại y (vị thầy thuốc lớn)! Hay thay! Hay thay! Ta từ ngày hôm nay, mới biết được sự thiện ác, tốt xấu của thuốc sữa.

Nhà vua liền uống thuốc sữa và bệnh được trừ khỏi, tức thời tuyên lệnh cho tất cả trong nước từ nay về sau phải uống thuốc sữa. quốc dân nghe lệnh đó đều sinh ra sân hận, đều nói với nhau rằng: “Nhà vua hôm nay bị quỉ ám hay bị điên rồi sao mà lừa gạt chúng ta lại ra lệnh uống sữa”. Tất cả nhân dân đều ôm lòng sân hận, đều tập họp ở chỗ vua. Nhà vua nói rằng:

– Các người chẳng nên đối với ta mà sinh ra sân hận! Như thuốc sữa này uống hay chẳng uống đều là thầy thuốc dạy, chẳng phải là lỗi của ta!

Lúc bấy giờ, đại vương cùng những nhân dân nhảy nhót vui mừng cung kính cúng dường bội phần vị thầy thuốc đó. Tất cả người bệnh đều uống thuốc sữa, bệnh đều trừ khỏi hết.

Ðức Phật dạy rằng:

– Này Tỳkheo! Các ông phải biết rằng, Như Lai Ứng Cúng Chánh Biến Tri Minh Hành Túc Thiện Thệ Thế Gian Giải Vô Thượng Sĩ Ðiều Ngự Trượng Phu Thiên Nhân Sư Phật Thế Tôn cũng lại như vậy, là Ðại Y vương xuất hiện ở thế gian, hàng phục tất cả ngoại đạo, tà y, ở trong bốn chúng xướng lên như vầy: “Ta là Y vương!” Ta muốn hàng phục ngoại đạo nên xướng lên rằng: “Không ngã, không nhân, không chúng sinh, không thọ mạng, không dưỡng dục, không tri kiến, không tác giả, không thọ giả”. Này các Tỳkheo! Các ông phải biết, lời nói của các ngoại đạo này về ngã như loài trùng ăn gỗ ngẫu nhiên thành chữ vậy. Vậy nên Như Lai, ở trong Phật pháp xướng rằng, vô ngã là vì điều phục chúng sinh, vì biết thời. Vô ngã như vậy là có nhân duyên nên ta cũng nói hữu ngã, như vị thầy thuốc giỏi kia giỏi biết sữa là thuốc, là chẳng phải thuốc, chẳng phải như việc cho có ngô ngã của kẻ phàm phu. Việc cho là Ngã của kẻ phàm phu ngu muội thì hoặc có người nói rằng, lớn như ngón tay cái, hoặc như hạt cải, hoặc như vi trần. Như Lai nói về Ngã đều chẳng như vậy. Vậy nên nói rằng, các pháp vô ngã, thật ra chẳng phải vô ngã. Cái gì là Ngã? Nếu pháp là thật là chân, là thường, là chủ, là y tính chẳng biến dị thì đó gọi là Ngã. Như vị Ðại y kia giỏi lý giải thuốc sữa, Như Lai cũng vậy, vì các chúng sinh nên nói trong các pháp chân thật có Ngã. Bốn chúng các ông cần phải tu tập pháp này như vậy.

KINH ÐẠI BÁT NIẾT BÀN

– Quyển thứ hai hết –

    Xem thêm:

  • Kinh Trung A-Hàm – HT Thích Tuệ Sĩ dịch - Kinh Tạng
  • Kinh Trường A-Hàm – HT Thích Tuệ Sĩ dịch - Kinh Tạng
  • Kinh Trường A-Hàm Phần 4 – HT Thích Tuệ Sĩ dịch - Kinh Tạng
  • Kinh Trường A-Hàm Phần 3 – HT Thích Tuệ Sĩ dịch - Kinh Tạng
  • Kinh Trường A-Hàm Phần 2 – HT Thích Tuệ Sĩ dịch - Kinh Tạng
  • Kinh Trường A-Hàm Phần 1 – HT Thích Tuệ Sĩ dịch - Kinh Tạng
  • Kinh Dược Sư Lưu Ly Quang Như Lai Bổn Nguyện Công Đức – Tuệ Nhuận dịch - Kinh Tạng
  • Kinh Tinh Xá Đầu Voi – Thích Nữ Tuệ Thành dịch - Kinh Tạng
  • Kinh Bảy Giấc Mộng Của A Nan – Thích Nữ Tuệ Thành dịch - Kinh Tạng
  • Kinh Duy Ma Cật Sở Thuyết – HT Thích Tuệ Sỹ dịch - Kinh Tạng
  • Kinh Đại Bát Niết Bàn – Thích Trí Tịnh dịch - Kinh Tạng
  • Kinh A Nan Vấn Phật Sự Cát Hung – Thích Nữ Tuệ Thành dịch - Kinh Tạng
  • Nghi Quỹ Bố Đàn Pháp Tu Dược Sư - Kinh Tạng
  • Kinh Bách Dụ – Thích Tâm Châu dịch - Kinh Tạng
  • Kinh Văn Thù Sư Lợi Bát Niết Bàn – Thích Nữ Thành Thông dịch - Kinh Tạng
  • Kinh Văn Thù Sư Lợi Bát Niết Bàn – Huyền Thanh dịch - Kinh Tạng
  • Kinh Trường Bộ (Dìgha Nikàya) – HT Thích Minh Châu dịch (Trọn bộ) - Kinh Tạng
  • Kinh Khai Giác Tự Tánh Bát Nhã Ba La Mật Đa - Kinh Tạng
  • Kinh Đại Bát Niết Bàn – Đoàn Trung Còn & Nguyễn Minh Tiến dịch - Kinh Tạng
  • Kinh Phật Dạy Tu Tập Mười Nghiệp Lành - Kinh Tạng